header image
Like us on Facebook Follow us on Twitter RSS feeds

VỊ  CHÂN  SƯ Quyển I 

The Initiate - 1920

Mục Lục

PHẦN I. 5

DẪN  NHẬP.. 6

GIỚI  THIỆU.. 11

CHƯƠNG  1.. 14

VỊ  CHÂN  SƯ.. 14

CHƯƠNG  2.. 16

KHÁCH  LẠ.. 16

CHƯƠNG  3.. 20

BUỔI  GẶP  THỨ  HAI. 20

CHƯƠNG  4.. 25

TÍNH CÂU  NỆ  CỦA  BÀ  DARNLEY.. 25

CHƯƠNG  5.. 30

BỮA  TIỆC  NGOÀI  VƯỜN... 30

CHƯƠNG  7.. 34

CÔ  DAISY  TEMPLEMORE.. 34

CHƯƠNG  8.. 40

LINH  MỤC  WILTON... 40

CHƯƠNG 9.. 47

TRIẾT  LÝ  VỀ  SỰ  TỬ.. 47

CHƯƠNG  X.. 52

NỖI  ĐAU  KHỔ  CỦA  THIẾU  TÁ  BUCKINGHAM... 52

CHƯƠNG  11.. 61

CHIẾN  THẮNG  CỦA  LÒNG  CAO THƯỢNG.. 61

CHƯƠNG  XIV.. 72

CUỘC  TÁI  NGỘ  CỦA  GLADYS  VÀ  GORDON... 72

CHƯƠNG  XV.. 80

THÁI  ĐỘ  TỰ  CẦM  TÙ.. 80

CHƯƠNG  XVI. 88

CUỘC  CẢI  HÓA  FLOSSY  MACDONALD.. 88

CHƯƠNG  XVII. 95

CHƯƠNG XVIII. 102

SỰ  RA  ĐI. 102

PHẦN II. 107

THE CIRCUITOUS JOURNEY.. 107

I. 109

II. 113

III. 118

IV.. 120

V.. 123

VI. 127

VII. 132

VIII. 133

IX.. 136

X.. 140

XI. 147

XVI. 157

XVII. 164

XVIII. 167

XIX.. 176

XXI. 187

 

 

 

PHẦN I

DẪN  NHẬP

 

Bộ ba quyển The Initiate, tác giả By His Pupil, là các sách đặc biệt có giá trị tâm linh rất cao và tác giả là nhân vật đáng chú ý, nên cần có đôi lời trình bầy về tác phẩm và người viết để chúng ta thẩm định đúng mức ý nghĩa của trọn bộ sách, cùng sự đóng góp của tác giả vào phong trào Minh Triết Thiêng Liêng (MTTL) của thế kỷ 20. Bộ sách gồm ba cuốn: 

The Initiate xuất bản năm 1920, 

The Initiate in the New World  năm 1927 

The Initiate in the Dark Cycle  năm 1932 

và đều ký tên By His Pupil. Từ đó tới nay sách được tái bản rất nhiều lần, và hiện giờ vẫn được xem là tác phẩm cần đọc cho ai muốn biết thêm về Theosophia (Minh Triết Thiêng Liêng MTTL). Danh tính của tác giả được giữ kín trong nhiều năm, và bởi sách rất được ưa chuộng cùng gây tiếng vang lớn trong giới nghiên cứu MTTL, đã có một số người tự nhận mình là tác giả. Gần năm mươi năm sau khi quyển The Initiate xuất hiện, người viết mới tiết lộ sự thật trong một tác phẩm khác của mình, và nay công chúng biết đó là nhà soạn nhạc Cyril Meir Scott nổi tiếng người Anh. Thế nên trước khi nói về tác phẩm, ta sẽ nói về tác giả Scott.

Cyril Meir Scott (1879-1970) có sự nghiệp chính là về nhạc, và một nhận xét về ảnh hưởng của ông trong nhạc cho rằng Scott là cha đẻ của âm nhạc thế kỷ 20 nước Anh. Ông soạn nhiều thể loại nhạc, có bài hát, nhạc kịch (opera), nhạc hòa tấu (symphony), các tấu khúc cho dương cầm, vĩ cầm, trung vĩ cầm (viola) v.v. Nhạc của ông trong thế kỷ trước được trình bầy rộng rãi tại Anh, Đức, Pháp, Hoa Kỳ; người yêu nhạc cũng lập ra hội Cyril Scott để giới thiệu nhạc của ông tại những nước trên, riêng đài BBC của Anh và các dàn nhạc lớn tổ chức những buổi trình diễn nhạc Scott để kỷ niệm dịp ông được 60, 70 tuổi. Các đại học ở nhiều nơi cũng trao tặng bằng danh dự cho ông. Bên cạnh âm nhạc, Scott còn được biết tới qua các tác phẩm về MTTL và sức khỏe. Ông gia nhập hội Theosophia khoảng thập niên 1910 và viết sách về MTTL dưới nhiều hình thức, hoặc là bộ The Initiate, hoặc là ảnh hưởng huyền bí của nhạc qua các thời đại, hoặc nguyên do bên trong của bệnh ung thư và cách chữa trị bệnh này. Một số chi tiết trong các sách trên là của chính ông tìm tòi và khám phá, số khác là hiểu biết bí truyền mà ông được sử dụng làm trung gian để đưa ra thế giới trong thế kỷ 20. Do đó ta sang phần thú vị sau là mục đích của sách, và phương cách ông viết chúng.  

Bộ The Initiate có nhân vật chính trong chuyện là ngôi thứ nhất xưng Tôi, nhưng Scott nói rằng một người khác đã đưa tài liệu cho ông để viết, còn thì ông không phải là nhân vật trong chuyện. Tuy vậy chuyện cũng mang tính chất tự thuật phần nào, với cuộc hôn nhân của nhân vật chính phản ảnh rất sát việc của ông trong đời thật. 

Bối cảnh quyển sách là xã hội Anh nói chung, và tình trạng của hội Theosophia vào lúc đó nói riêng, cả hai có nhiều điều cần được chấn chỉnh. Cho xã hội là quan niệm hẹp hòi về hôn nhân với tính chiếm hữu, ghen tuông, hiểu biết sai lạc về Thiên Chúa giáo; cho hội Theosophia là ý tưởng sai lầm của các hội viên với hoạt động của Chân Sư và phong trào Theosophia, ngoài ra còn có hiện tượng Krishnamurti hồi cuối thập niên 1920. Nội dung của sách thiên nhiều về các điều trên, nhưng cũng chính vì vậy mà có vài chương chỉ thích hợp cho xã hội Anh hay tây phương, hay nhắm vào tình trạng lúc đó, sẽ không được dịch sang Việt ngữ vì không cần thiết cho độc giả Việt, và xin đề nghị quý độc giả tìm nguyên tác Anh văn đọc thêm nếu muốn. Trong khi đọc ta cần nhớ rằng đây là nỗ lực nhằm sửa đổi một số nét của thời điểm ấy, nên chúng có thể bớt quan trọng theo cái nhìn của thế kỷ 21. Chẳng hạn tư tưởng của Krishnamurti đã thay đổi vào thập niên 1980 so với thập niên 1920, và thái độ của xã hội về tình dục cũng khác trước rất nhiều, dầu vậy một số lớn ý tưởng đưa ra trong sách vẫn giữ được giá trị rất cao không chút lỗi thời, như giải thích về mặt bí truyền của nhiều việc. 

Sách vở trong hội Theosophia hồi thập niên 1920, 1930 đề cập tới sự hiện hữu của các Chân Sư là một điều hay, nhưng nét sùng tín nặng tình cảm mà ít lý trí đã dẫn tới nhiều quan niệm sai lạc về các ngài, do đó có nhu cầu trình bầy lại cho đúng đắn hơn, và Scott làm việc này qua những sách của ông. Mặt khác, càng lúc Thiên Đoàn (the Hierarchy) gồm các Chân Sư càng hiển lộ nhiều hơn trong thời đại mới, để công chúng biết thêm về các ngài là điều cần thiết và các tác phẩm của Scott nhắm một phần tới mục đích ấy, cũng như PST chọn dịch bộ The Initiate để chúng ta hợp sức nhỏ bé của mình vào công việc các ngài. 

Vị Chân Sư trong chuyện là nhân vật có thật. Scott gọi ngài là Justin Moreward Haig hay J.M.H., đó không phải là tên thật của ngài tuy nhiên điều ấy không quan hệ. Chuyện quan hệ là lời dạy trong sách. Chuyện bắt đầu với quyển The Initiate, nhân vật chính kể lại việc ngài xuất hiện trong xã hội Anh và tiếp xúc với một số người nơi ấy, một phần vì ngài và vài Chân Sư khác có việc phải làm ở nước Anh, phần nữa vì ngài có mối dây liên hệ với những người trên, và nay muốn trả lại ân xưa cũng như để giúp đỡ họ, sau một thời gian và nhiều diễn tiến, chuyện chấm dứt khi ngài sang Hoa Kỳ. Quyển hai The Initiate in the New World tiếp tục với nhân vật chính được Chân Sư J.M.H. gọi sang Hoa Kỳ, tại đây anh thấy ngài qui tụ một nhóm đệ tử với các buổi học hàng tuần. Anh cũng đoán biết ngài còn việc làm khác nhưng chỉ giới hạn sự trình bầy hoạt động của ngài vào những buổi họp này mà thôi. 

Một thời gian sau, ngài cho biết lý do gọi anh sang Hoa Kỳ là muốn đề nghị anh làm công tác, tức lập gia đình với một đệ tử khác trong nhóm; người này anh có quen biết nhưng đôi lúc vô cớ cảm thấy thù nghịch. Ngoài những lý do cho cuộc hôn nhân ta nói ở trên, còn lý do khác ngài cho biết là cả hai có thể giúp đỡ nhau trong công việc của riêng mỗi người, khi hợp sức như vậy bầu không khí hòa hợp từ lực trong lúc sống chung khiến cho các Chân Sư có thể làm việc xuyên qua họ. Sau nhiều đắn đo suy nghĩ, hai người bạn vâng theo đề nghị của ngài và sự việc này kết thúc quyển hai. Quyển ba The Initiate in the Dark Cycle bắt đầu vào lúc tiểu gia đình cư ngụ tại London với hiện tượng Krishnamurti và lời giải thích hiện tượng này. Người đọc biết thêm hoạt động của vài Chân Sư khác, và thấy rằng nơi nào cũng được các ngài chăm lo, cũng như có những kế hoạch được các ngài sửa soạn cho tương lai. 

Bởi sách đề cập nhiều đến những vấn đề gặp phải trong hôn nhân, Scott  được thư của các bà vợ hỏi phải xử sự ra sao với đức lang quân không chung thủy, hay thư của đấng mày râu muốn biết đối phó như thế nào với các bà thiếu thủy chung. Ông than thở rằng những điều này có ghi trong sách cả rồi, độc giả còn hỏi là chứng tỏ chưa nắm hết ý nghĩa của nó. Rồi cũng có thư vui, cảm tạ tác giả vì hôn nhân, hay cuộc đời của họ được cứu vãn, qua cơn khủng hoảng nhờ chỉ dạy của ngài, hay quan niệm của họ với cuộc đời đã biến đổi hoàn toàn sau khi xem sách. Về việc giữ kín tông tích của ngài, Scott giải thích là các Chân Sư tại Anh có phần việc quan trọng cùng với các Chân Sư khác phải làm cho nhân loại, tiết lộ về các ngài sẽ làm can thiệp đến công việc ấy. Mục đích của sách ngoài việc làm cân bằng lại sự thay đổi về luân lý, lề thói và niềm tin trong thời đại mới, cho phù hợp với mức tiến hóa mới của nhân loại, nó còn nhằm chứng tỏ sự hiện hữu của các đấng cao cả. Lý do là có người không biết việc ấy, hay biết mà xem đó là chuyện khó tin, hay đã tin mà lại nghi ngờ. Lời thuật trong sách là của người từng diện kiến thật sự với các ngài, nên sự xác quyết ấy hy vọng có thể củng cố niềm tin của hai loại người chót ở trên. Thêm vào đó một khi đã tin vào các Chân Sư Minh Triết, và chấp nhận chỉ dạy của ngài là người ta đã lập nên mối dây liên lạc tâm linh với ngài, có rung động cảm ứng phần nào với Chân Sư. 

Scott nhấn mạnh rằng ông chỉ là cây viết trong tay các ngài, người đọc không nên quan tâm đến cái tôi của ông, và việc ông được chọn cho công tác này  chỉ vì đời sống của ông cho phép ông ở vị trí làm được chuyện ấy. Điều này rõ hơn khi chúng ta xem qua tác phẩm khác của ông cũng có nguồn gốc bí truyền là quyển Music: Its Influences throughout the Ages. Trong thập niên 1920, Chân Sư K.H. ngỏ ý rằng đã tới lúc nên trình bầy các khía cạnh bí truyền của âm nhạc. Ngài đưa ra ý tổng quát để Scott đi vào chi tiết, trước đó ông không có khái niệm gì về những ảnh hưởng huyền bí này, giờ việc soạn cuốn sách khiến ông học được rằng âm nhạc tác động lên tâm trí con người, và các nhạc sư được Chân Sư gợi hứng để nhấn mạnh một số tình cảm nào đó trong con người. Họ trở thành vận cụ với tầm ảnh hưởng rộng lớn trong việc uốn nắn luân lý và trào lưu tư tưởng. Bach, Beethoven, Chopin và nhiều vị khác đều đã được dùng để mang lại một số ảnh hưởng nên có, nhằm đẩy mạnh sự tiến hóa của nhân loại tuy họ không hay biết về nguồn của sự gợi hứng này, hay ảnh hưởng phát sinh từ sáng tác của họ, thí dụ như phải 200 năm nữa trọn tác động của nhạc Wagner mới phô diễn. 

Sự thiếu ý thức này của các nhạc sự không phải là một bất lợi, vì nếu họ biết Thiên Đoàn muốn họ tạo nên ảnh hưởng đặc biệt nào, có thể họ sẽ cố tâm tìm cách sinh ra chúng và làm ngăn trở cảm hứng thật sự. Chẳng hạn nếu Mendelssohn biết rằng công việc của ông là diễn tả và tăng gia lòng thiện cảm, ông có thể chủ ý soạn loại nhạc mà ông cho là gợi nên lòng thiện cảm, để rồi kết cục sinh ra tác phẩm kém cỏi. Về điều này chỉ bậc Chân Sư mới biết được ảnh hưởng mà một loại nhạc nào đó sẽ tạo nên, mà không phải người nhạc sĩ được sử dụng làm vận cụ, được gợi hứng viết nên loại nhạc ấy. Scott cũng ghi thêm rằng người ta có thể thắc mắc tại sao các đại nhạc sư phải phấn đấu khó khăn để nhạc của mình được trình diễn, được thưởng thức, như Mozart chết trong cảnh nghèo khó, hay có khi nhạc sĩ qua đời nhiều năm rồi nhạc của họ mới được quí chuộng. Ông đưa ra một trong các lý do là tà lực can thiệp, vừa khi nào Thiên Đoàn tìm cách đưa ra bất cứ điều chi như nhạc, nghệ thuật, văn chương v.v. để nâng cao nhân loại, các huynh đệ tà đạo tức khắc tìm cách ngăn trở, và cố làm hư công việc ấy của các ngài. 

Chót hết, nói về việc âm nhạc hiện đại tỏ ra không chút hòa điệu (discordant), Scott trình bầy rằng có thể nói tổng quát là có hai loại nhạc sĩ, một loại được gợi hứng thiêng liêng dùng âm nhạc để uốn nắn các đặc tính nên có trong tương lai, loại khác không được gợi hứng như thế và chỉ biểu lộ đặc tính của hiện tại. Thời đại của chúng ta có quá nhiều sự tàn bạo, sợ hãi, rối loạn, nên kết quả khi diễn tả bằng âm nhạc trở nên xấu xa và thiếu hòa điệu, nhưng đây là điểm thấp nhất mà nhạc đã đi xuống nên ông tin rằng người ta có thể hy vọng chu kỳ nhạc sắp bắt đầu đi lên, mang lại sự hòa điệu lần nữa. 

Ta vừa đi vào chi tiết hai tác phẩm của Scott là bộ The Initiate và Music, ông còn nhiều quyển khác rất nên đọc, nhất là ba cuốn Outline of Modern Occultism, The Greater Awareness và quyển tự thuật Bone of Contention. Độc giả ưa thích có thể đặt mua sách tại nhà xuất bản Samuel Weiser mà các tiệm sách có địa chỉ, hay mua tại nhà sách của hội Theosophia nơi cư ngụ; với những quyển đã tuyệt bản ta có thể mua trên eBay. Ta cũng có thể đọc hay mượn được sách tại thư viện của các chi bộ Hội.

...

 

GIỚI  THIỆU

Câu chuyện - nếu ta có thể gọi đây là chuyện - về ngài Justin Moreward Haig là chuyện thật theo nghĩa nhân vật này quả có hiện hữu, tuy như tôi sẽ giải thích sau này, tôi bắt buộc phải che dấu danh tính của ngài vì nhiều lý do, và tôi nhấn mạnh sự hiện hữu của ngài vì một số người có thể nghi ngờ việc có thể đạt tới mức toàn thiện mà ngài biểu lộ không sao chối cãi được, để bảo rằng tôi viết chuyện tiểu thuyết thay vì viết sự kiện đã xẩy ra. Ngài cũng không phải là người duy nhất ở mức tiến hóa về mặt tâm linh ấy, vì không những vào lúc này còn có nhiều vị giống như ngài đang sống giữa chúng ta, và nếu lịch sử thế giới ghi chuyện đúng thật, thì trong quá khứ có hằng trăm vị hoặc cao cả như ngài, hoặc hơn ngài, đã từng sống. 

Nền văn minh của thế kỷ 20 tìm cách phủ nhận hay giải thích những quyền năng lạ thường của những vị như vậy để nói rằng nó không có gì lạ, nhưng ai suy nghĩ sâu xa và chịu bỏ công tìm tòi ngoài kiến thức hời hợt, sẽ đi tới kết luận rằng câu nói 'Không có lửa sao có khói' áp dụng được cho trường hợp này, và sự phủ nhận hay giải thích cho qua của điều mà ta gọi là nền văn minh hiện giờ, thì không phải là kết quả của hiểu biết thực sự mà đúng ra là thiếu hiểu biết. Từ xưa đến nay, thi văn, chuyện kể, truyền thuyết có nói tới các nhân vật huyền bí và kỳ diệu vượt trội hơn con người bình thường, như linh hồn con người vượt xa bậc con vật. Tất cả những tác phẩm ấy dù hữu ý hay không đều nói lên sự thật là các bậc Chân Sư, Thánh Nhân, Hiền Triết quả có hiện hữu, và ai biết cách tìm thì có thể gặp các ngài và tin tưởng chắc chắn vào việc ấy. 

Các bậc Chân Sư không hẳn đầy bí ẩn như sách vở ghi. Tôi biết có hai Chân Sư (còn gọi là Mahatma) cư ngụ chỗ hẻo lánh ở Tây Tạng, nhưng dựa vào đó mà nói rằng tất cả các ngài đều giống vậy thì không đúng, vì tôi biết có một số Chân Sư sinh sống tại Anh vào lúc này, cũng như tại Hoa Kỳ và gần như tại hầu hết các quốc gia khác. Các ngài không ở một chỗ mà thường khi đi từ nơi này sang nơi khác như người đời, với mọi dáng vẻ bề ngoài hết sức bình thường. 

Nhưng đó chỉ là bề ngoài mà thôi, mà không phải sự hiểu biết sâu xa người ta thu thập được khi có liên hệ chặt chẽ hơn với các ngài, với trí tuệ và khả năng của các ngài. Đối với người mới gặp, ngoài hình dạng khang kiện lạ thường, điềm tĩnh, chững chạc, không có gì làm người ta ngờ là các ngài có quyền năng. Thay vì muốn khêu gợi lòng hiếu kỳ hay sự hâm mộ của người đời, các ngài tìm cách làm cho mình hết sức bình thường đối với ai nhìn thoáng qua, như không mặc y phục kỳ lạ hay ở nơi thâm u ma quái. Nhiều vị còn tập một tật xấu nhỏ của người đời như hút thuốc, để làm cho mình bình thường thêm trong mắt người đời. Nhưng đó chỉ là cho thế gian mà thôi, với ai tìm đến các ngài mà hội đủ điều kiện thì họ có ấn tượng khác hẳn, thấy được phần cá tính kỳ diệu của các ngài mà ai khác không được cho thấy. Và chuyện thiết yếu là muốn thấy được thì ta phải biết cách tìm, chỉ có ai theo chỉ dẫn này mới có thể khám phá sự thực, và sự thực ấy là phần căn bản của chuyện kể về các ngài. Nói khác đi thế giới bên ngoài không biết phải tìm gì nên không thấy được gì, hay cao lắm thì chỉ thấy được chút ít, thế nên muốn có lời mô tả về bậc Chân Sư thì bắt buộc người ta phải quay sang người đệ tử, và dựa vào người này mà thôi, vì do lòng khát khao minh triết bí truyền họ đã có quyền được biết vị Chân Sư với trọn nét thiêng liêng của các ngài. 

Chúng ta hãy tưởng tượng một con người không có nhược điểm nào của người bình thường, một người hoàn toàn không có lòng ích kỷ, kiêu ngạo, ghen tị, giận dữ, thù ghét và những tật xấu khác, hơn thế nữa đó là một người có tâm thức hết sức sâu rộng, linh hoạt vô cùng tới mức ta nghĩ đó là siêu thức hơn là sức sống. Và siêu thức này vì vậy có liên tục sự bình an và từ ái vô điều kiện, đi kèm với minh triết thượng đẳng và quyền năng. Nói về quyền năng, vị Chân Sư có được hiểu biết về thiên nhiên và những luật trong trời đất mà nhân loại nói chung chưa biết, và có thể kiểm soát những năng lực thiên nhiên theo cách mà chúng ta không thể tưởng tượng được, đừng nói là làm theo. Nếu ngài biểu diễn cách điều khiển những luật này (là điều ngài không bao giờ làm) thì con người không tin và thiếu hiểu biết sẽ bảo đó là nhà ảo thuật hay tệ hơn là kẻ gạt gẫm. Nói khác đi, chỉ cho người ta điều mà họ không thể hiểu thì lập tức họ sẽ gán nó cho điều gì mà họ có thể hiểu được, vì đó luôn là khuynh hướng của ai chưa hiểu biết. 

Chúng ta đã tìm cách nói về con người bên trong, nay nói về hình dạng bên ngoài của vị Chân Sư thì bắt đầu là ngài cho thấy có sự khang kiện luôn luôn và trong nhiều trường hợp là sự trẻ trung, hay đúng hơn là tuổi trung niên sung mãn. Do chọn lựa làm việc không ngừng để giúp nhân loại tiến hóa, và thấy rằng một thân xác già nua là trở ngại cho nỗ lực trên, ngài dùng sự hiểu biết bí truyền của mình để ảnh hưởng những phân tử của thể xác, và do đó ngăn chặn không cho thân xác già yếu, cũng như nó chỉ chết đi khi ngài chọn tới lúc qua đời, mà không chết trước đó. Ta cũng không nên quên một điểm khác có liên hệ với nét trẻ trung và sức khỏe trọn vẹn của ngài, ấy là ngài hoàn toàn thoát khỏi sự phiền não, hoàn toàn không vướng mắc vào tất cả những tình cảm xáo động có khuynh hướng làm già nua thân xác, và đảo lộn sự quân bình của cơ thể. Trong tâm ngài có sự bình an trường cửu, và đối với ngài những âu lo rối rắm của cuộc đời xem ra vô nghĩa và trẻ con, giống như chuyện lo âu của đứa trẻ thì vô nghĩa với người lớn. Nhưng bởi có tình thương bao la, ngài có thể thông cảm với người khác như bà mẹ thương yêu và thông cảm với con mình, hiểu được nỗi lo lắng mà bà biết ngày kia đứa trẻ sẽ vượt qua. Bởi muốn cho lòng thiện cảm có giá trị thật sự thì  nó phải không vướng chút sợ hãi, bằng không nó sẽ không thể giúp đỡ hay an ủi, thế nên lòng thiện cảm không có chút sợ hãi của vị Chân Sư là sự giúp đỡ có giá trị nhất mà người ta có thể tưởng tượng được. Đằng sau lòng tuyệt đối vô úy này là sự Hiểu Biết, cái Hiểu Biết phải có như là nền tảng chân thực và duy nhất cho sự an ủi, xoa dịu quả tim rướm máu của nhân loại bị đau khổ. 

Lời mô tả thiếu sót trên về vị Chân Sư là để độc giả có thể hiểu dễ hơn tính xác thực của quyển sách, và không cho rằng tôi thêm thắt, và nếu trong những trang sau tôi chỉ tả được 1/4 phần tinh túy phát ra từ bản chất ngài là tôi không thất bại hoàn toàn, và đó là tất cả những gì tôi có thể hy vọng trong công việc hết sức khó khăn này. Tôi bị giới hạn rất nhiều vì không thể thêm bớt, tô điểm vẽ vời như viết tiểu thuyết, vị Chân Sư hết sức cao cả so với người thường nên cách duy nhất để biết ngài là đối điện với ngài bằng xương bằng thịt. Vì không có chút kiêu căng và tìm cách tránh khêu gợi mọi hình thức hiếu kỳ của công chúng, ngài tìm đủ cách để hướng sự chú ý của người về chuyện khác thay vì hướng đến ngài, do đó nếu ngài sống tách biệt với thế giới thì ấy là để dấu mình trong sự cô tịch, và nếu ngài sống giữa thế giới, ấy là để che dấu mình ngay giữa đám đông.

 

CHƯƠNG  1

VỊ  CHÂN  SƯ

 

Tôi có trước mặt công việc to tát là viết lại cảm tưởng của tôi về một vị đã đạt tới mức tiến hóa vượt xa khỏi người thường, tới nỗi ta có thể xem ngài như là bằng chứng sống động để bác lại câu nói 'Không có ai là toàn thiện trong thế giới.' Câu ấy không đúng và một trong những mục đích của cuốn sách này là nhằm chứng minh điều không đúng ấy. Việc thầy J.M.H. (tôi không được phép tiết lộ tên thật của ngài ) có là một bậc Đại Sư (Adept) hay không thì tôi không nói được, thật sự tôi không biết vì ngài hết sức kín đáo với những gì liên quan đến mình. Nhưng tôi biết rằng nếu bỏ qua những ý nghĩa không đúng về thánh nhân hay siêu nhân, thì thầy J.M.H. (tôi thường gọi ngài là Moreward) có thể được gọi rất chính xác là vị thánh hay là bậc siêu nhân. Thực vậy, được tiếp xúc với bậc siêu phàm như thế cho tôi thấy rằng vị thánh có thể hiện hữu trên đời mà không cần có lòng sùng tín quá độ làm rất bực bội, cũng như bậc siêu phàm có thể có trên đời mà không cần có lòng ham muốn quyền lực. Hơn nữa có một điều mà nếu không có thì không sao người ta thành thánh nhân hay siêu nhân được, là đặc tính tinh thần. 

Có người thiếu óc tưởng tượng đã cho rằng toàn  thiện cũng có nghĩa là người chán phèo, nhưng họ không thấy rằng tính chán phèo ấy là một nét của sự bất toàn thay vì sự toàn thiện. Theo lý luận ấy, sống trong cõi Niết Bàn hằng an lạc thì cũng như sống trong địa ngục đời đời chán ngấy. Thầy Moreward không hề làm người ta chán ngấy, ý kiến và hành động của ngài không đoán trước được. Câu chuyện về Vị rất đỗi lạ thường này là chuyện thật, ngài quả có hiện hữu trên đời mà vì một số lý do tôi sẽ giải thích về sau, tôi bắt buộc phải dấu kín tên tuổi của ngài, nhưng tôi thấy cần phải nhấn mạnh sự kiện là ngài có thực, bởi người ta có thể nghi ngờ việc có thể đạt tới mức độ hoàn thiện như ngài biểu lộ, và do đó không chừng xem ngài chỉ như là một nhân vật tiểu thuyết, là sản phẩm của óc tưởng tượng mà thôi.  

Tuy ngài là nhân vật sống thực, tôi cần thưa ngay từ đầu với độc giả rằng tôi không sống trong cùng nhà với ngài, vì vậy tôi không theo dõi tất cả những việc làm của ngài để sau đó thuật lại. Chuyện tôi sẽ làm là ghi lại ý kiến của ngài, và cách ngài thực hành những ý kiến ấy mà không làm gì khác hơn. Tôi không thể viết lại chuyện đời ngài vì lẽ giản dị là tôi không biết chuyện ấy, và chỉ có thể đoán là nó rất thú vị. Về diện mạo của ngài thì tôi được yêu cầu là không nên đưa ra nhiều chi tiết, tôi nghĩ tốt hơn để cho độc giả trọn quyền tưởng tượng, vẽ ra con người của ngài dựa theo lời kể về hành động và lời nói của ngài. Điều tôi có thể ghi là ngài có sức khỏe hết sức khang kiện, và trong những năm quen biết ngài, tôi không hề thấy ngài buồn rầu, ngoại trừ sự buồn rầu nhẹ nhàng của lòng từ ái bao la, thế nên tưởng tượng thì gương mặt của ngài đầy vẻ an lạc thư thái, nó có nét đẹp tương ứng không sai chạy với cái tâm bình lặng. Đối với chuyện khác tôi xin thêm là ngài J.M.H. bước vào đời tôi cách đây khoảng 20 năm (sách xuất bản năm 1920), và xa tôi 10 năm sau đó tới nơi khác làm việc. Tuy vậy tôi được ngài cho phép viết lại những ấn tượng này, cùng lúc ngài yêu cầu tôi đừng viết những gì có thể làm lộ danh tính của ngài, và của những ai mà ngài có liên hệ. 

Tôi xin nói thêm một điều nữa để giải thích làm sao viết ra những ấn tượng đó. Khi tôi nhận ra là mình được tiếp xúc với người có sự minh triết lạ lùng, tôi dùng tốc ký ghi lại nhiều lời nói của ngài khi nào có dịp. Rất thường khi tôi phải hoàn toàn dựa vào trí nhớ, khi không thể móc sổ ra ghi trước mặt người khác. Một đôi khi tôi nhớ sai nên chuyện kể không đúng, và có thể tôi gán cho ngài những lời mà ngài không hề thốt ra. Trong trường hợp đó thì phần lỗi về tôi mà không phải là ngài, và cũng vì vậy mà tôi gọi đây là cảm tưởng hơn là một cái tựa quan trọng hơn.

 

CHƯƠNG  2

KHÁCH  LẠ

 

Gặp được một nhà hiền triết tại phòng khách thông thường của một tư gia tại London là chuyện bất ngờ. Làm sao thầy J.M.H. có mặt tại phòng khách của một trong những phu nhân lịch thiệp nhất của London là bí ẩn tôi sẽ tiết lộ sau này, ở đây chỉ cần ghi rằng nhờ lòng hiếu khách của Lady Eddisfield mà tôi có được tình thân hữu quí giá nhất trong đời mình, cũng như tôi không sao quên được chi tiết về cuộc gặp gỡ lạ lùng ấy. Tôi nhớ lại rằng lúc phần nhạc mà không có tính nhạc chút nào kết thúc, tôi ngồi ở bàn tiệc với bốn người khác, một người mà tôi gọi trong phần này là nhà hiền triết và ba phụ nữ. Ngài đang nói chuyện với các bà, và ba phụ nữ này nghiêng người tới trước, đầy vẻ chăm chú lạ lùng, xem như đó là minh triết khác thường còn tôi khi ấy chỉ coi nó khác lạ mà không hẳn là minh triết. 

– Có quan niệm là cách ngừa đối với mọi nỗi buồn rầu, và mục đích của mọi cách suy nghĩ chín chắn là có được quan niệm đúng đắn. Như vậy sự đau khổ nội tâm là kết quả của tính tình còn non dại, và một linh hồn đã trưởng thành không thể nào đau khổ về chuyện mà quí vị vừa nói, giống như người đã trưởng thành không đau lòng vì con búp bê bị vỡ. 

Một bà to lớn trong nhóm hỏi: 

– Khi dùng chữ linh hồn đã trưởng thành, có phải ông muốn nói như là triết gia? 

– Chính vậy, tôi muốn ám chỉ tới nhà hiền triết, bậc thánh nhân hay triết gia, ngài đáp lại, nói khác đi là người đã hòa hợp cái trí của mình với niềm hoan lạc nội tâm vô điều kiện, cái vốn là tính chất bẩm sinh của mỗi linh hồn con người. 

Tôi vểnh tai nghe và chăm chú nhìn ngài trong chốc lát, rồi đặt một câu hỏi. 

– Ông bảo mọi sự đau khổ tâm thần là vì trí tuệ còn trẻ con, như thế thì hạnh phúc có giống vậy không?

Ngài quay lại nhìn tôi với cặp mắt dịu dàng nhưng mạnh mẽ kỳ lạ và đáp. 

– Đau khổ là những ảo ảnh của cuộc đời, và đặc tính của trẻ con là thích ảo ảnh, trò chơi của chúng là giả làm vua, làm lính, làm cái này cái kia. Về mặt khác, sự hài lòng là một trong những đặc tính của sự trưởng thành và... 

Một bà chen vào. 

– Tôi không thấy có ảo ảnh chút nào nếu vợ ông Wilfrid không còn thương ông nữa, và quay ra thương người khác. 

Ngài trả lời một cách từ tốn và mỉm cười. 

– Ảo ảnh nằm ở chỗ ông chồng thấy khó chịu về việc ấy. 

– Thế à? Bà cao lớn buột miệng. 

– Lòng ghen tuông, ngài tiếp lời, dĩ nhiên cũng là một hình thức của tâm tính còn trẻ con. 

– Nhưng ông Wilfrid không hề ghen tuông bao giờ, bà khi nẫy nói tiếp. 

Ngài nhìn bà với nụ cười thân thiện hiền lành. 

– Ghen tuông có hai mức độ, ngài nói, một là không có lý do nào để mà ghen, cái khác là có lý do. Chỉ có ai không bị xáo động khi có nguyên nhân thực sự để ghen mới đúng là người có tính không ghen. 

Một bà trong nhóm quay sang tôi nói một cách nóng nẩy. 

– Chắc tôi không muốn lấy ai không có ghen một chút. 

– Phải rồi, ngài nhìn về phía bà mỉm cười, có nhiều bà cũng nói y vậy. Bà thấy không, họ nghĩ các ông ghen tuông tức là khen các bà, nhưng đó lại cũng là ảo ảnh vì lời khen ngợi thực sự chỉ có nếu người đàn ông thương yêu nhiều tới mức ông luôn luôn đặt hạnh phúc của bà lên trên hạnh phúc của ông. 

– Tôi nghĩ không có mấy ông chồng như vậy trong đời, tôi nói. 

– Mà nếu có, một bà thêm vào, thì họ thiếu nam tính, có cho tôi cũng không muốn có chồng như vậy. 

– Chuyện đó chỉ vì có lẽ quí vị chưa hề nghĩ kỹ về chuyện này. Ngài trả lời một cách nhẹ nhàng. Quí vị xem này, ngài nói tiếp thật lịch sự, một người phụ nữ cao thượng sẽ không bao giờ muốn chồng mình có cảm xúc khó chịu lẫn thấp kém như vậy chỉ để thỏa mãn lòng kiêu hãnh của mình. 

Nghe thế một bà bật lên cười và nói,  'Ông đúng là khéo nói'. 

Ngài phác một cử chỉ để bác lời khen. 

– Tôi chỉ là một trong những người may mắn hay không may mắn thấy chuyện y như nó là vậy thôi. 

Một bà xen vào. 

– Như thế ông không có cái nhìn nghệ thuật, ông không làm được như họa sĩ có thể làm, là nhìn ống khói nhà máy mà tưởng rằng đó là lâu đài cổ kính. 

– Chà, có lẽ bà nói trúng ngay điểm yếu của tôi, ngài nhìn nhận. Thực vậy tôi có tính chân thực làm cho tôi rất khó hiểu tại sao người ta lại có thể tin chuyện thấy rõ ràng là không đúng. 

– Thí dụ như chuyện gì? tôi hỏi. 

– Như một người đàn ông không thể thực sự thương yêu người đàn bà trừ phi ông tỏ ra ghen tuông. 

– Rõ ràng là ông chưa có gia đình, tôi xen vào với chút ác ý. 

– Tôi đã có gia đình, ngài trả lời sau khi ngưng hơi lâu một chút và trí tôi thoáng qua chữ 'ly dị', nhưng ngài tiếp, bây giờ thì tôi góa vợ. 

Nghe vậy chúng tôi trong bàn vội vã liếc nhau. 

– Dù vậy, ngài nói thêm như để làm chúng tôi được tự nhiên, cái nhìn của tôi về chuyện vợ chồng không phải là lý thuyết suông. 

– Vâng, một bà nói, ông quả là người chồng hết sức rộng lượng. 

Ngài lại xua tay bác lời khen này. 

– Tôi chỉ là người chồng thực tế vì tôi luôn luôn cho rằng làm khác đi, tức không rộng lượng như bà đã khen, thì không có lợi. 

– Nói vậy là sao? một người trong bọn chúng tôi hỏi. 

– Là muốn sở hữu người khác thì giống như muốn chiếm lấy mặt trăng vậy, bởi mỗi linh hồn con người thì chỉ thuộc về họ thôi, không thuộc về ai khác. 

– Vậy lập gia đình để làm chi? tôi nói. 

– Để quí vị có thể sống với người mình thương yêu mà không làm cho cô gái bị mang tiếng, câu trả lời được đưa ra ngay.

Tới đây tôi đâm ra bực mình khi người hầu tiệc ngắt lời và nói nhỏ rằng bà chủ nhà muốn tôi dự một ván cờ cho có đủ chân. Tôi đứng dậy cáo lỗi rồi rời bàn. Tới khuya khi tôi đứng ở tiền sảnh chờ xe, óc tò mò của tôi được thỏa mãn đôi chút, vì một trong ba phụ nữ cùng bàn cũng đứng chờ xe ở đó. Tôi hỏi nhỏ. 

– Ông trẻ tuổi kỳ lạ đó là ai vậy? 

– Trẻ à? bà nói. Tôi đoán ông ta phải hơn 55 là ít. 

– Vậy càng làm cho ông ta kỳ lạ thêm, nhưng ông ta là ai thế? 

– Tên ông là Justin Moreward Haig, mới từ Rome đến khoảng hai tháng nay, tôi biết có thế thôi. 

Dù chỉ mới gặp ngài  có nhiều lắm là 20 phút, nhưng có một sức thu hút, sự dịu dàng cùng với một sức mạnh về trọn con người của ngài  làm tôi bị lôi cuốn về ngài một cách không cưỡng lại được. Cho là người ta hoàn toàn bất đồng ý kiến với những gì ngài nói, ngài làm cho họ cảm thấy là ngài hết sức sáng suốt, mà khi nói chuyện như vậy ở bàn tiệc và với người lạ, thì ngài lại có vẻ ngây thơ một cách lạ lùng. Tôi lại còn nghĩ rằng không chừng ngài điên, như tôi nghĩ trong lần tiếp xúc kế với ngài, và có sự thành thực như là dấu hiệu của bệnh điên. Thực tế là chỉ có người điên mới hết sức thành thực nói ra ý tưởng chưa nghe bao giờ, chỉ có họ mới tin rằng điều họ nói là tuyệt đối trúng. 

Những ý tưởng này liên tiếp nẩy sinh trong óc tôi lúc đứng chờ với bà cùng bàn, và tôi tìm cách hỏi chuyện để có chi tiết về người lạ. 

– Làm sao bà biết là ông bấy nhiêu tuổi rồi? tôi nói. 

– Ông ta có con gái đã lập gia đình, trông khoảng trên dưới 38 tuổi. Bà đáp. 

– Cô ta có mặt ở đây tối nay không? 

– Cô quay về Rome chừng hai tuần trước rồi. 

– Mà bà có chắc rằng cô là con gái của ông không? tôi gặng hỏi. 

– Ông ta giới thiệu cô như vậy, nhưng lẽ dĩ nhiên ai dám chắc chuyện gì, bà thêm vào có hơi xấu bụng một chút, nhất là mối liên hệ giữa người đời với nhau. 

Khi ấy xe của bà đến và việc truy hỏi của tôi bị ngưng, cũng như lần gặp gỡ đầu tiên của tôi với ngài chấm dứt.

 

CHƯƠNG  3

BUỔI  GẶP  THỨ  HAI

 

Tôi thú thật rằng trong vài ngày sau buổi gặp đầu tiên ấy, tôi suy nghĩ nhiều về bữa tiệc và nhân vật chính tối hôm đó, khác với thói quen thường ngày. Ngoài câu hỏi chưa giải thích được rằng ngài là ai (vì tên ngài không cho biết gì nhiều đối với tôi), trí tôi nẩy sinh một loạt những thắc mắc khác mà không có câu trả lời thỏa đáng nào. Cũng như vài người quen mà tôi hỏi thăm về ngài không làm sáng tỏ gì hơn ngoài điều mà bà bạn vừa nói cho biết, câu trả lời của họ không thêm gì khác ngoài câu trả lời của bà. Cách ngài dùng chữ 'trẻ con' làm tôi ban đầu tự hỏi là ngài có kiêu ngạo quá mức chăng, nhưng rồi tôi nhớ lại là ngài nói chữ ấy một cách vô tâm không có chút ý riêng nào, giống như người ta nói trời có mây hay không mây, thế nên ý tưởng kiêu ngạo biến mất khỏi tâm trí tôi.

Và tới ngày kia chúng tôi tình cờ gặp nhau trong vườn Kensington để từ buổi đó những thắc mắc trên và nhiều điều khác biến mất. 

Tôi đang ngồi mơ màng nhìn lối đi quanh co uốn lượn của khu vườn, trông giống như giòng sông trôi giữa hai bờ cỏ mềm hiền hòa, thì ngạc nhiên thấy ngài bất chợt đến và ngồi xuống cạnh tôi. 

– Chúng ta được xếp đặt làm bạn với nhau, ngài nói, đưa tay đặt lên cánh tay của tôi trong chốc lát, vậy thì bắt đầu tình bạn sớm chừng nào tốt chừng đó. 

Tôi lẩm bẩm vài câu ngỏ ý hân hạnh và vui thích, vì lời ấy làm tôi vui dù thấy nó có hơi lạ. 

– Chúng ta đừng mất thì giờ nói xa xôi mà nên đi ngay vào chuyện như bạn thấy. Nói chỉ để mà nói thì ít khi nên làm. 

Tôi đồng ý là thường khi người ta nói nhiều quá, nhưng tôi tự hỏi chữ 'chúng ta' này có nghĩa gì, vì nó không có vẻ như gồm có tôi trong đó. 

– Tôi nhớ lại, ngài tiếp tục nói, khi tôi từ giã bạn trong hoàn cảnh có hơi buồn thảm khoảng hai ngàn năm trước ở Ai Cập, tôi tìm cách an ủi và nói với bạn rằng chúng ta sẽ gặp nhau trong hoàn cảnh tốt đẹp hơn, khi ấy bạn có thân xác nữ. 

– Thật ư? Tôi ráng nói một cách tự nhiên vì chợt nẩy trong trí tư tưởng là không chừng tôi đang nói chuyện với người điên. Bởi có người điên tỏ ra rất dễ mến. Ngài nhìn tôi một lát với đôi mắt tỏ vẻ thân thiện hóm hỉnh. 

– Bạn có nhớ bà cô của bạn tên là cô Jane Wibley không? ngài hỏi. 

Tôi đáp là có, trong nhà thường xem cô là người kỳ quặc. 

– Tôi quen biết cô Jane, ngài nói. 

– Biết cô Jane? tôi lập lại, nhưng cô đã qua đời hai chục năm rồi. 

– Việc đó không làm trở ngại cho tình thân của chúng tôi, ngài trả lời gọn ghẽ. 

– Nào, tôi cười và nói nhưng trong lòng thấy bực dọc chút đỉnh, ông có đùa không đấy? 

– Tôi không trách bạn là thấy bực mình đối với tôi, ngài cũng cười và đáp, nhưng bạn hãy chờ xem rồi biết. Bạn có nhớ, ngài tiếp tục, trong nhà thường chế diễu cô đôi chút vì khuynh hướng tâm linh của cô không? 

Tôi có nhớ chuyện ấy. 

– Bạn cũng có nhớ là sau một lần tranh luận trong nhà, cô hứa chắc rằng sẽ có ngày cô thuyết phục được ai chống đối bằng cách gửi một tin sau khi qua đời rồi không? 

Tôi nhớ rõ điều đó. 

– Tốt lắm, thế thì cô đã gửi tin về. 

– Tin gì thế? Tôi hỏi mà không tin chút nào. 

Ngài nói cho tôi hay và tôi phải  thú nhận rằng nó rất đáng tin, vì nó đề cập tới một chuyện chỉ liên quan đến tôi mà thôi. 

– Làm sao ông có được tin ấy? tôi hỏi.

Ngài giải thích kỹ cho tôi hay, và sau khi nghe xong tôi nói. 

– Tôi chắc ông thuộc về phái thông linh học (Spiritualism)?

– Không đúng theo nghĩa mà bạn muốn nói đâu, ngài trả lời. Tôi là đủ mọi phái mà nếu bạn muốn thì cũng không là phái nào. Sinh ra có một niềm tin là tốt, mà chết đi trong niềm tin ấy thì là chuyện không may. Niềm tin giống như cây nạng để có người nhờ đó cà nhắc tới Chân Lý, khi tới rồi thì người ta vứt cây nạng đi. Nhiều người sùng đạo có niềm tin, nhưng tin tưởng không nhất thiết là biết, chỉ có nhà huyền bí học thực hành là biết thôi. 

– Vậy ông là nhà huyền bí học? 

– Phải tôi chắc người ta có thể gọi tôi như vậy, ngài nói một cách khiêm tốn. 

– Thế thì, tôi hỏi đầy vẻ tò mò, làm sao một người như ông lại vui thích chuyện tiệc tùng chán ngấy trong xã hội London? 

Ngài cười lớn. 

– Một chuyện chán ngấy hay thú vị là tùy cách bạn làm nó, ngài nói. Nếu bạn thật sự muốn biết thì xin thưa tôi đi tìm chuyện thú vị tinh thần. 

Tôi không hiểu rõ ý ngài và bảo thế. 

– Phải rồi, câu đó có hơi mù mờ, ngài đáp, nhưng khó mà cắt nghĩa khác đi chỉ trong một câu ngắn. 

– Tôi thực tình muốn biết nó là gì, thật đấy. Tôi thúc giục ngài. 

– Nào, nó như thế này, tôi thích làm chuyện mà đối với bạn có vẻ lạ lùng, nhưng tôi tìm cách thay đổi quan niệm người đời để chỉnh lại những khó khăn của họ. Nếu muốn gọi  tôi bằng tên dễ chịu thì bạn có thể gọi tôi là nhà nhân ái, làm chuyện từ thiện bằng cách nói luân lý. 

Tôi bắt đầu hiểu một chút. 

– Tôi không có công gì đâu, ngài nói tiếp, nó là chuyện giết thì giờ như những chuyện khác nhưng có một lợi điểm rất lớn, là mang được điều tốt lành cho người ta. Ai đi săn giải trí thì gây đau đớn cho những sinh vật khác để mình được vui, còn thú giải trí lý tưởng là có niềm vui bằng cách làm mất đi nỗi đau của người khác. 

– Vậy triết lý của ông là cho ra? Tôi hỏi. 

– Vâng, ngài nói, nhưng có hai loại cho ra, một loại quà thì tạm bợ, một loại khác thì lâu bền. 

Tôi không hiểu cho lắm câu đó. 

– Nếu bạn cho một người lang thang và đói bụng mấy đồng, ngài nói, thì vài giờ sau khi tiêu xài hết tiền họ sẽ đói bụng trở lại; nhưng nếu bạn cho họ thấy một quan điểm làm họ thật tình muốn đi làm, thì bạn đã cho họ một điều vô giá. 

Tôi nói là thấy triết lý của ngài đầy sáng suốt một cách thực tế. 

– Bây giờ, ngài tiếp tục, có rất nhiều người đầy lòng xả kỷ đi vào khu ổ chuột phân phát tặng vật, nhưng nói một cách bóng bẩy thì có ai đi vào khu ổ chuột của xã hội và mang an ủi tới cho các bà vợ bị bỏ rơi, tới người bị tình phụ, người đang si mê trong tình yêu, người chồng đau khổ, và vô số những ai đau khổ có đầy trong xã hội? 

– Thấy ông đang làm việc đó. 

– Tôi cố gắng làm vậy.

Tôi móc ra hộp thuốc và mời ngài một điếu, được ngài nhận lời (xin nhắc lại chuyện viết vào thập niên 1920, lúc xã hội chưa biết nhiều về nguy hại của thuốc lá). Nhưng rồi tôi khám phá là không mang theo hộp diêm. Ngài lấy trong túi ra một hộp nhỏ bằng vàng, lúc ấy gió xuân đang thổi và mỗi lần que diêm bật cháy thì bị gió thổi tắt ngay. Tôi nhìn ngài một cách thú vị vì ngài hoàn toàn không có chút nóng nẩy làm tôi thấy lạ hết sức. 

– Ông không hề mất kiên nhẫn ư? cuối cùng tôi hỏi. 

Ngài nhìn tôi và cười. 

– Nóng nẩy à? ngài nói, để làm gì? Tôi có cả sự vĩnh cửu trước mặt mình. 

Và rồi ngài châm điếu thuốc cho tôi với que diêm chót hết trong hộp. 

– Nào, bây giờ trở lại câu hỏi của bạn, nay bạn rõ vì sao tôi lui tới các nơi trong xã hội London chứ gì, ngài nói. 

– Và xã hội vì vậy mà được tốt lành hơn, tôi nói. 

Ngài gạt lời khen ấy qua bên như vẫn luôn làm vậy. 

– Nhưng có một điều mà bạn không biết, ngài thêm vào. 

Tôi hỏi điều gì. 

– Bạn không biết vì tôi không thích nói về mình. Nói xong ngài đứng dậy. 

Tôi cười, 'Sẵn đây', tôi đứng dậy bắt tay ngài, 'Tôi chắc ông chưa biết tên tôi, chúng ta chưa chính thức được giới thiệu với nhau'. 

– Bạn quên bà cô của bạn, ngài nháy mắt và nói. 

Tôi lại cười nữa, cách giới thiệu này quả là mới mẻ. 

– Chúng ta sẽ gặp lại nhau ở nhà bà Darnley chiều thứ tư này, ngài vừa quay đi vừa nói. 

– Nhưng tôi không được mời, tôi bảo, vả lại chiều hôm ấy tôi có cái hẹn khác. 

– Chúng ta vẫn gặp nhau ở đấy. Rồi ngài bước ra lối đi trong vườn. 

– Mình thích người này, tôi nói thầm trong lúc nhìn ngài đi khuất bóng. 

Và lạ lùng thay, khi về nhà tôi thấy cuộc hẹn chiều thứ tư được dời lại, và hôm sau có thiệp mời của bà Darnley.

 

CHƯƠNG  4

TÍNH CÂU  NỆ  CỦA  BÀ  DARNLEY

 

Chẳng bao lâu tôi khám phá là thầy J.M.H. có chủ trương vô hại là dùng chính mình gây kinh ngạc nơi người khác. Đa số thường ngại ngùng không muốn nói chuyện gì bất ngờ, và khi bắt buộc phải nói thì họ rào trước đón sau dài dòng, khiến cho điều bất ngờ trở thành chuyện ai cũng biết trước là sẽ tới. Khi thả quả bom vào buổi trò chuyện khô khan đầy thói tục của xã hội, thầy có hai mục đích, một mặt thì rõ ràng là ngài thích vậy, mặt khác thì bất ngờ ấy làm người ta phải suy nghĩ. Có hôm thầy bảo tôi.

– Có hai cách để nhấn mạnh, một là hét to không ai thích, hai là trưng ra một sự thực lạ lùng chưa được biết tới như thể ta đang nói điều hiển nhiên nhất trên đời. 

Và chắc chắn là cách ấy mang lại kết quả, vì tôi có thể nói là tôi nhớ từng chữ một trong câu chuyện giữa thầy với tôi ở vườn Kensington hôm đó, cũng như là đa số những lời nói (mà tôi gọi là lời giảng) của thầy. Tuy vậy có một điều khác ngài không hề làm, là không bao giờ nói điều gì chỉ để gây chú ý, bất cứ điều gì ngài nói đều là điều ngài tin rằng đúng, và thầy nói điều ấy với sự giản dị đáng tin hàm ý ngài biết người nghe tin rằng nó cũng là điều thực. Kết quả thêm của việc này là nó khiến con người thầy đầy vẻ trong trắng, trẻ thơ, thu hút và khuyến dụ được ai tiếp xúc với thầy. Thực vậy khi người ta bị kinh ngạc là bị kinh ngạc một cách dễ chịu và không hề nẩy sinh ý nghi ngờ hay tức giận chút nào. Chuyện không thể khác hơn vậy được vì ngài không hề tấn công vào niềm tôn kính của họ bằng cách chế diễu nó, phương pháp của ngài trong việc vạch ra lỗi lầm ít khi là nói rằng họ sai, mà nói rằng có điều khác trúng. Dầu vậy cũng có ngoại lệ đối với người mà ngài gọi là người giả hình Pharisees đương thời, ngài bảo 'Với trường hợp này thì thầy cực chẳng đã phải dùng búa đập vỡ ngẫu tượng giả của họ.' 

Bà Darnley là một người quen đã lâu của tôi và thường mời khách dự những bữa ăn tối có rất ít người. Thực vậy, tối đó khi tới nơi tôi không ngạc nhiên mà lại hài lòng thấy không có khách nào khác ngoài thầy Moreward Haig và tôi. Bữa ăn do đó gồm bà Darnley, cô Sylvia con gái bà còn trẻ và quyến rũ, cùng với hai chúng tôi; mà số người cũng bớt thêm vì khi xong bữa, cô Sylvia cáo lỗi phải đi dự cuộc họp bạn và không thể ở lại tiếp chuyện với chúng tôi. Bà Darnley hôn con gái, nói 'Chào con' với nét âu yếm do tục lệ đòi hỏi hơn là do tình thương, và nhìn theo cô trầm ngâm chứng tỏ bà đang suy nghĩ nhiều, sau đó bà quay sang khách nói lên ý nghĩ của mình. 

– Con nhỏ làm tôi lo, bà ưu tư bảo, tôi không thích chuyện đang xẩy ra cho nó. 

Hai chúng tôi bầy tỏ thiện cảm và hỏi bà có việc gì đáng lo. Bà đáp. 

– Chuyện có liên quan đến một ông thi sĩ. Chúng tôi  cười lớn. 

– Cô gái làm bạn với một chàng thi sĩ ư?, thầy hỏi. 

– Thầy gọi đó là tình bạn, bà nói, nhưng tôi không tin có tình bạn giữa trai gái trẻ tuổi. 

Hai chúng tôi lại cười vang vì ý kiến này. 

– Nào, tôi bảo, tình bạn là chữ duy nhất thích hợp, khi cô gái không phải là vợ của chàng trai, không phải là vị hôn thê hay là... 

– Xin đừng nói chữ đó, bà vội vàng ngắt lời, bằng không ông làm tôi bực mình lắm đó, dĩ nhiên con gái tôi không phải người như vậy. 

Thầy nhìn bà Darnley cười và nói. 

– Tình bạn là chữ đẹp đẽ và lại là chuyện tốt đẹp hơn nữa, vậy tại sao từ chối không nhận là có nó? 

– Tôi không phủ nhận có nó ở đúng chỗ và giữa hai người thích hợp, nhưng Sylvia đầy tình cảm, bà nói có hơi do dự, nó không được cẩn trọng. 

– Thế chữ cẩn trọng có phải là đồng nghĩa với chữ tình yêu trong cách suy nghĩ của bà chăng? tôi hỏi. 

– Ông biết rõ tôi muốn nói gì. 

– Vâng, nhưng bà có chắc là bà biết điều mình muốn nói là gì không? tôi gặn hỏi. 

– Ông thiệt là thô lỗ, bà nói, đương nhiên tôi phải biết chứ.

– Nhưng chắc chắn là tình cảm thêm vào tình bạn, tm tiếp lời sau cuộc trao đổi của bà với tôi, là chuyện hết sức may mắn, nó làm cho tình bạn được trọn vẹn hơn. Bà không mừng là con gái bà nên cảm được điều gì đó có thêm vào hạnh phúc của cô sao? 

– Tôi không nghĩ là nó sẽ thêm vào hạnh phúc của con nhỏ, bà đáp, ngoài ra tôi không nghĩ như vậy là đúng đắn. 

– Thế thì bà cho là không đúng đắn việc con gái bà quí chuộng bất cứ ai ngoài bà và chính cô ấy? tôi hỏi đùa. 

– Đừng vô lý, ông Broadbent ! bà đáp và phá ra cười tuy ráng làm mặt nghiêm mà không được. 

– Bà nhận rồi đấy nhé, tôi bảo. 

– Vậy bà nghĩ, thầy Moreward hỏi mà không có chút mỉa mai, là người ta chỉ nên thương kẻ thù của mình thôi hay sao? 

– Cố nhiên không phải rồi. 

– Tôi có nghe câu là 'Hãy thương yêu người bên cạnh mình', tôi nháy mắt thêm vào, tôi chắc bà có thực hành điều ấy. 

– Tôi có tập làm vậy, bà nói với vẻ thành kính thoảng qua rất mau. 

– Nhưng bà không nghĩ là con gái bà nên thương yêu người bên cạnh cô, nhất là khi đó là một người đàn ông, và lại là thi sĩ? tôi bồi thêm và lại nháy mắt thêm vào. 

– Ông biết rõ là nó không phải tình thương đó. 

– Chà, phải đây đúng là chỗ mà bà sai không? thầy Moreward nói một cách sôi nổi dịu dàng. Trên thực tế chỉ có một loại tình thương, còn sự khác biệt mà bà và những người khác cũng tạo ra mà chắc không hề nghĩ kỹ về nó, thì thuộc về mức độ mà không phải là loại khác. 

Bà liếc tôi một cái như có ý nói 'Tôi sẵn sàng nghe thầy nói, vì thầy không dùng tôi làm trò đùa'. 

– Bà nói không tin có tình yêu thuần khiết không vướng bận nhục dục (platonic love), ngài nói tiếp, ít nhất đó là ý tôi suy diễn, nhưng nếu bà có thể tin điều ấy thì bà sẽ đồng ý với giá trị của nó. 

– Có thể tôi sẽ đồng ý, bà trầm ngâm nhìn nhận. 

– Tốt lắm, nhưng nói cho sát thì thế nào là tình yêu thuần khiết. Nó chỉ là sự kết hợp của thiện cảm về trí tuệ và thiếu thiện cảm về mặt thể chất. 

– Đó là định nghĩa hay nhất mà tôi được nghe, tôi chen vào. 

– Tôi sợ là tôi không có đủ thông minh để hiểu, bà Darnley nói với vẻ khiêm tốn không thành thực cho lắm. 

– Thế này này, tôi giải thích, nó có nghĩa người đàn ông ưa thích đàm luận với người đàn bà, miễn là ông ta có thể ngồi ở đầu kia của chiếc ghế sofa bao lâu mà ông muốn, và không thích ngồi gần hơn vì ông không thích thân xác của phụ nữ ấy. Phải không ạ? tôi hỏi thầy Moreward. 

– Nói có hơi thô một chút nhưng cũng đúng. Ngài đồng ý và cười to. 

– Tôi thấy vậy không lịch sự cho lắm, bà Darnley phê bình. 

– Cảnh đó chán phèo, tôi nói thêm để trêu ghẹo bà. 

– Nhưng đó là điều triết gia Plato không hề hàm ý, thầy Moreward tiếp tục sau khi bị tôi ngắt lời. Ông chỉ muốn nói tới việc tự kiểm soát mình, việc có lòng thương yêu mà kềm chế không chìu theo và biểu lộ nỗi đam mê thể chất. 

– Trời, bà Darnley kêu và không biết mình nên tỏ vẻ xúc động hay không. Tôi chưa hề nghe ai nói như vậy hồi nào.  

– Giống như nhiều chuyện khác, tôi xen vào, người giả hình uốn cái nghĩa nguyên thủy cho hợp với quan niệm của họ. 

– Giả hình ! bà nhắc lại. Thời này chắc chắn là đâu có người như vậy nữa. 

Suýt nữa tôi buột miệng nói với bà rằng theo tôi bà là người giả hình, nhưng tôi ngậm lại. 

– Bà có nghĩ là chính người giả hình thời nay, thầy Moreward nói, đã làm bà tin rằng việc con gái bà quí chuộng người đàn ông này là không đúng đắn không, nói khác đi là tình cảm ấy sai lầm? Còn theo khía cạnh tinh thần thì chuyện sai lầm sẽ là khi cô ấy không quí chuộng ông thi sĩ. 

– Chà, thầy Haig, bà bảo, thầy nói ngược lại hết mọi chuyện. 

– Nhưng chính người giả hình mới đảo ngược hết mọi chuyện, tôi nói, họ bảo là 'Bạn chớ nên thương yêu người cạnh mình'. 

Bà cười một cách yếu ớt. 

– Bà có muốn con gái của bà có trái tim không biết thương yêu không? thầy Moreward hỏi với vẻ đơn sơ bình thản. 

– Dĩ nhiên tôi muốn một ngày kia nó thương yêu ai đó, yêu đúng người. Bà trả lời. 

– Đúng theo nghĩa là có tiền? tôi xen vào. 

– Đúng theo mọi nghĩa, bà chữa lại. 

– Điều gì tốt cho bà thì có thể là độc cho cô, tôi đáp. 

Bà giả vờ không hiểu nhưng thật ra bà hiểu rất rõ. 

– Bà Darnley, bà có bao giờ thấy là, thầy Moreward nói với vẻ kính trọng, tại sao có nhiều cuộc hôn nhân không có hạnh phúc không? 

– Chà, tôi chưa hề nghĩ nhiều về chuyện ấy, bà nói. 

– Bà có nghĩ là có lẽ vì có quá nhiều bà mẹ nhìn tình bạn theo quan điểm hôn nhân không? 

– Có lẽ, nhưng đó không phải là việc tôi đang làm... 

– Xin lỗi bà, ngài nói với  vẻ dịu dàng ân cần và phác tay, nhưng chính đó là điều bà đang làm. Bà đang phân vân lưỡng lự giữa hai chuyện về hôn nhân. 

Bà trông có vẻ rối trí thật tình và bảo thầy như thế. 

– Tôi muốn nói, thầy giải thích, là bà sợ con gái bà có thể muốn thành hôn với ông này, mà bà cũng e ngại là cô có thể không muốn thành hôn với ông. Nói vắn tắt thì thái độ của bà đối với tình thương yêu là hoặc dẫn tới hôn nhân hoặc không có gì hết. Bà này, thái độ ấy là nguyên cớ cho đa số cuộc hôn nhân thiếu hạnh phúc. Người trẻ lấy người họ quen mà không thích hợp thay vì kết hôn với bạn chân tình. 

– Nói như thầy thì dễ, bà nói tỏ vẻ không tin, nhưng thật sự tôi không thể cho phép con gái tôi có một loạt những cuộc tình. Làm vậy người ngoài sẽ nghĩ sao đây? 

– Để ý tới lời dèm pha của người khác là có lòng tự phụ, ngài nói nhẹ nhàng, còn lưu tâm đến hạnh phúc của con gái mình là tình thương. Tôi chắc bà sẽ chọn điều sau, ngài thêm vào và đặt tay lên cánh tay của bà. 

– Chà, chà, bà lẩm bẩm, hài lòng với lời khen của thầy nhưng không chắc là bà có được vậy chăng. Chà, chà, để xem sao. 

Và tới đó là chấm dứt buổi nói chuyện, vì cô Sylvia về tới nhà, vào phòng làm chúng tôi ngạc nhiên. 

– Con chịu không nổi, cô nói, cuộc họp bạn chán quá nên con đi về. 

Một chốc sau chúng tôi cũng cáo từ về nhà. 

 

CHƯƠNG  5

BỮA  TIỆC  NGOÀI  VƯỜN

 

Khoảng mười ngày sau ba chúng tôi lại gặp nhau trong bữa tiệc ngoài vườn tại nhà công nương Appleyard.  Tôi có gặp thầy J.M.H. vài lần ở nhà thầy và nơi khác trong khoảng thời gian đó, và thầy bảo tôi rằng nếu có thể thì thầy muốn giúp cô Sylvia một chút. 

– Hào quang của cô cho thấy có nhiều đức tính đáng quí, ngài bảo, và chỉ cần cô được phép yêu và sống thực một chút thì cô sẽ có tiến bộ lớn lao trong kiếp này. 

Tôi xin thêm rằng nhận xét có tính huyền bí ấy và những lời khác tương tự không còn làm tôi kinh ngạc hay có vẻ khó hiểu nữa, vì nói chuyện nhiều về triết lý huyền bí với thầy lúc này khiến tôi tương đối hiểu được đề tài thật hấp dẫn đó. Chúng tôi đưa bà Darnley ra một chỗ mát trong góc vườn rộng được chăm sóc đẹp đẽ của công nương Appleyard, với bà không tỏ ý phản đối cho lắm. Tuy có tính sống theo thói đời, rõ ràng là bà quí chuộng và yêu thích thầy nhiều hơn là thích những người khác. Còn đối với tôi, thì có lẽ ít nhất tôi làm bà vui lòng. 

– Về tình bạn với ông thi sĩ của con gái bà, ngài nói, tôi mong là bà không gây cản trở gì cho việc ấy chứ? 

– Tôi có thể gây cản trở gì nào? bà hỏi. 

– Như không có thiện cảm, thầy Moreward đáp. 

– Tôi khó mà có thiện cảm với chuyện tôi không thuận lòng. 

– Lòng thiện cảm chân thực nhất là có thiện cảm với chuyện mà người ta không đồng ý với, ngài nói một cách nhẹ nhàng nhưng với nhiệt tâm, thiện cảm chỉ vì thiện cảm, thiện cảm chỉ vì tình thương. 

– Chắc bà không yêu quí con gái của bà, tôi chêm vào theo bản tính ưa chọc ghẹo của mình. 

– Sao ông nói thế được? bà phản đối. 

– Tôi nghĩ bà có viết thư trao đổi với ông thi sĩ phải không? Thầy hỏi sau khi đưa mắt nhìn tôi ngụ ý là tôi phải nghiêm chỉnh lúc này. Bà Darnley kinh ngạc thực sự. 

– Làm sao thầy biết được? bà hỏi, ngay cả Sylvia cũng không biết mà. 

– Có nhiều cách để biết chuyện mà không cần người ta nói mình nghe, ngài cười và đáp. Tôi nghĩ bà có thư của ông trong ví phải không?

Bà lại càng ngạc nhiên hơn nữa. 

– Tôi có thể chỉ cầm lá thư trong tay được không? Cố nhiên là tôi không đọc thư rồi.

Bà mở ví với vẻ ngạc nhiên không hiểu và đưa cho thầy lá thư. 

– Cám ơn bà, và bây giờ, ngài nói tiếp, giả thử tôi tả người này với cá tính của ông cho bà, và giả thử đó là cá tính tốt thì bà sẽ thay đổi thái độ không? 

– Tôi không biết, bà nói có chút nghi ngờ. 

– Nào, để xem xem, ngài tiếp tục, nhẹ nhàng chạm vào thư bằng ngón trỏ và ngón cái. Ông là người cao, da sậm, không có râu, gương mặt khắc khổ nhưng khỏe mạnh, trán cao, tóc chải thẳng ra sau, mắt sáng, có mầu xanh xám. Có đúng như tôi nghĩ không? 

– Đúng lắm, nhưng làm sao... 

Ngài không để ý tới vẻ kinh ngạc của bà. 

– Tính tình ông giống với gương mặt. Ông có trí tuệ thanh bai, không ích kỷ, nhiều lòng thiện cảm, cao nhã. Xin mừng cho bà, bà Darnley, con gái bà có được tình bạn rất tốt. 

Ngài lại làm ngơ với sự lạnh lùng càng tăng thêm của bà. 

– Và bây giờ chúng ta thử xem tương lai có gì. Ngài trầm ngâm một lúc. Con gái bà sẽ không thành hôn với người này, ngài nói chậm rãi. Tuy nhiên nếu ngăn chặn tình bạn của hai người họ sẽ yêu thương cuồng nhiệt và sẽ có rối rắm xẩy ra cho cả ba người; bằng nếu cho hai người gặp gỡ nhau tự do thì mọi chuyện sẽ dàn xếp khiến bà hài lòng. 

Nỗi kinh ngạc của bà Darnley và lòng kiêu hãnh thói thường dằng co nhau, kết cục là lòng kiêu hãnh thắng. 

– Nhưng nếu tôi làm theo lời khuyên của thầy, một lúc sau bà nói, thì làm sao ngăn chặn được miệng lưỡi của thế gian? 

– Bận lòng vì vài chuyện đàm tiếu, ngài đáp nhưng có nét khoan dung, là một hình thức của tính trẻ con mà tôi nghĩ bà không có giống vậy. 

Cả ba ngưng một chút và tôi chắc bà Darnley thấy rằng bà có bận lòng về việc ấy, nhưng cố nhiên bà không gọi đó là tính trẻ con. 

– Bà có yêu thơ không? ngài hỏi để tìm cách thay đổi đề tài một chút, và cùng lúc trả lại bức thư. 

– Thích hết sức, bà nồng nhiệt đáp. 

– Nhưng không thích thi sĩ? tôi hỏi. Thi sĩ xem ra không được trọng cho lắm trong nhà có con gái đẹp. 

– Thầy bảo anh ta nghiêm chỉnh hơn một chút được không? bà kêu với thầy. 

– Tánh anh chàng thế, ngài nói một cách rộng lượng. Anh trưng ra cho bà một chân lý sâu xa bằng cách nói khôi hài. 

– Mấy ông luôn bênh nhau, bà nhận xét và cười, về phe với nhau, khác hẳn với mấy bà. 

– Thành ra xin lỗi là tôi bênh ông nhà thơ lúc này, ngài nói thật khéo léo. 

– Bà sẽ theo lời khuyên của tôi chứ? thầy hỏi sau khi ngưng một chút, nghe vậy bà Darnley nhìn có vẻ như bà ước phải chi cuộc đời có thơ mà không cần thi sĩ.

– Thầy nói nghe dễ lắm, bà đáp lại; thầy không có con gái, nếu có thầy sẽ nghĩ khác. 

– Xin lỗi bà, ngài nói mà cười, tôi có con gái. 

Bà Darnley tỏ vẻ ngạc nhiên. 

– Thế à, nhưng chắc con thầy chưa lớn, bà nói. 

– Nhưng cháu đã trưởng thành rồi. 

– Vậy mà thầy không nói tôi hay, bà Darnley càng kinh ngạc đáp lại có ý trách móc. Thầy thật không phải chút nào khi không mang cháu tới cho tôi gặp. Trời, thầy lập gia đình hồi bao tuổi để có con lớn mà coi thầy trẻ quá vậy? 

– Không trẻ lắm đâu, ngài đáp lại và bật cười vì sự ngạc nhiên của bà. Nói cho cùng thì sự trẻ trung chỉ là do có tinh thần an ổn, cộng với dinh dưỡng tinh khiết. Tôi nhớ có câu là 'Một trái tim thương yêu cho ra thân xác trẻ trung '.

– Chà, thiệt là chuyện lạ, bà Darnley buột miệng. 

– Không có gì lạ đâu, thầy vừa cười vừa chữa lại. Điều gì được xem là chuyện lạ với người này thì với người kia có thể là chuyện hằng ngày. Hồi nẫy tôi làm bà kinh ngạc khi sử dụng phép cảm thị (psychometry) cầm vật mô tả được người, chỉ vì bà chưa nghe nói tới thuật ấy, nhưng đó là chuyện hết sức tự nhiên cho ai trau luyện được khả năng đó. 

– Điều duy nhất gọi là tội trong đời là sự vô minh, tôi thêm vào với vẻ nghiêm khắc giả vờ. 

– Đúng vậy, thầy Moreward đồng ý ngay. 

– Trời đất, thiệt là, phải chi tôi khôn được vậy, bà Darnley thở dài rồi đứng dậy và bảo chúng tôi rằng bà phải đi. Chúng tôi đứng lên chào bà. 

– Bà không quên lời khuyên của tôi chứ? ngài gặng hỏi, vỗ nhẹ lên tay bà. 

– Để xem sao, bà đáp lại chưa có ý thuận. 

Ngài cúi đầu nhã nhặn và nhìn theo tới khi bà khuất mắt. 

– Chà, ngài thở ra một cách vui vẻ lúc không thấy bà nữa. Thầy phải thú thật là bầu không khí quanh người giả hình thiệt là ngột ngạt, bà ra về thì giống như đám mây nặng chịch bao phủ bầu trời được tan biến đi. 

Tôi cười lớn. 

– Thực vậy, ngài thêm, người giả hình khó mà vào được nước thiên đàng; chỉ thấy điều không thích hợp trong những chuyện vô hại và đẹp đẽ là sống trong địa ngục trên mặt đất. 

– Con đoán cô Sylvia và chàng thi sĩ của cô hai người đang yêu nhau? tôi tỏ ý mình, tuy thầy không nói lộ ra chuyện ấy. 

– Phải, ngài đáp, và đó lại là chuyện rất hay. Anh chàng cần có cô để kích thích khả năng sáng tạo của mình, và cô cần có anh để khơi dậy đặc tính tiềm ẩn của cô. Mặt cảm xúc sẽ tàn đi chẳng sớm thì muộn, nhưng tình bạn sẽ còn hoài. 

– Thầy có nghĩ là bà mẹ sẽ can thiệp làm hư chuyện không, tôi hỏi. 

– Có, trong một lúc ngắn. Tính chìu theo dư luận là một trong những hệ quả tệ nhất của lòng kiêu hãi vì nó có tính quá quắt. Tội nghiệp cho bà Darnley, bà hóa ra nhút nhát vì tính kiêu hãnh của mình, mối lo ngại trong đời bà là dư luận, sợ người đời sẽ nói gì, nghĩ gì. Bà không sống trong thế giới rộng lớn của tình thương, mà sống trong nhà tù. Nhân tiện, ngài thêm vào, con gặp cô Sylvia thường hơn thầy, nếu cô gặp khó khăn con nhớ cho thầy hay. 

– Vâng ạ, tôi thưa. 

CHƯƠNG  7 

CÔ  DAISY  TEMPLEMORE

 

Tôi biết Daisy Templemore từ lúc cô là bé gái mới 9 tuổi, và ngay cả khi bé tí như thế, tôi (và nhiều người khác nữa) thấy trước là cô bé sẽ lớn lên thành người tán tỉnh không tha ai, và cô làm y vậy. Từ khoảng năm 17 tuổi đến lúc tôi kể chuyện này là 10 năm sau, cô tán tỉnh hết người này rồi người kia, và năm 26 tuổi, việc Daisy hứa hôn với một sĩ quan phái qua làm việc tại Ấn Độ vẫn không làm chấm dứt thói quen này.

Anh chàng từ Ấn Độ về Anh nghỉ phép, được cô nhận lời cầu hôn và chiếm được một phần rất nhỏ quả tim cô (như chuyện tiểu thuyết thời xưa hay nói), rồi anh quay trở lại nhiệm sở để cô được tự do không bị vướng víu vì có anh, và tiếp tục tán tỉnh hết người này rồi người khác. 

Tuy tôi lớn hơn cô khoảng một con giáp, việc bồ bịch của Daisy không gây trở ngại cho tình bạn giữa hai chúng tôi, và tôi có thể thêm rằng tôi là một trong số rất ít người đàn ông mà Daisy ban cho vinh dự là không tán tỉnh, và cô cởi mở với tôi rất nhiều. Bởi cô rất xinh đẹp, ăn nói có duyên, một số tiệc tùng ở London thường xuyên mời cô tới dự, nên lẽ đương nhiên là cô làm quen được với thầy ngay khi có cơ hội, và tôi không ngạc nhiên là cô khởi sự tán tỉnh liền với ngài là nhân vật ai cũng muốn gặp mà hành tung lại rất kín đáo. 

Ở đây tôi phải nói một chút về thái độ của ngài đối với phái nữ. Ta hãy tưởng tượng một cảnh trí xinh đẹp mà có khả năng của người là biết nói, biết vui sướng lẫn biết đau khổ, rồi tưởng tượng thêm là có người ngắm nó khen ngợi, thông cảm mà không hề cảm thấy muốn chiếm hữu, nói khác đi, không đòi hỏi bất cứ điều gì từ cảnh trí ấy chỉ trừ một điều rằng nó hãy là chính nó, thì người ta có ấn tượng sơ sài về thái độ của bậc tiến hóa cao như người về người khác phái, mà tôi cũng  có thể thêm là đối với tất cả mọi người và mọi vật. Cảm tình của ngài đối với nhân loại là lòng lành hết sức sâu đậm, chỉ có thể diễn tả bằng một chữ là tình thương. Đối với những ai mà ngài tiếp xúc thì ngài không đòi hỏi gì hơn là họ là chính họ, trừ trường hợp khi mối liên hệ là giữa thầy với trò, lúc ấy ngài đòi hỏi (nhưng với lòng kiên nhẫn và khoan dung lạ lùng) một số đức tính không phải để làm lợi cho ngài, mà để làm lợi cho chính con người của họ. 

Chính ở điểm này mà Daisy Templemore tìm cách khai thác ngài thiệt bậy làm tôi bực cô hết sức. Khi thấy tán tỉnh mà ngài chỉ đáp lại bằng tình thân thiện đáng yêu, như đối đãi với tất cả những cô và bà khác, Daisy không hài lòng với thái độ không phân biệt đó nên dùng phương pháp khác là xin làm học trò của thầy, yêu cầu ngài dạy cô khoa minh triết bí truyền. Tôi thú thật là sự thất bại của cô làm tôi hài lòng vô kể.

Thầy Moreward không giống như một số người Anh kiêu hãnh, sợ không dám bầy tỏ cảm xúc yêu mến. Nếu việc bầy tỏ tình thương ra ngoài có thể làm lợi cho ai thì ngài không chần chờ gì mà ôm choàng lấy người đàn ông, đàn bà hay trẻ nhỏ. Sự việc làm người giả dối trong xã hội hiểu lầm, nhưng lời đàm tiếu xì xào đối với tấm lòng thanh tịnh của ngài thì giống như tiếng kêu sảng của vài con cừu mà thôi. Một hôm ngài nói với tôi. 

– Cảm xúc yêu mến đẹp đẽ và bình an của người bị mất đôi chút giá trị, trừ phi chúng ta có thể biểu lộ cho người khác. Cái chạm nhẹ của một bàn tay thân mến, hay dang đôi tay thương yêu ôm choàng một ai đôi khi có thể làm cho ai đau khổ được an ủi nhiều hơn một ngàn chữ, và việc giữ lại không bầy tỏ những cử chỉ bề ngoài này rất thường khi do lòng kiêu hãnh gây ra, tức tin rằng thương yêu do bí ẩn nào đó sẽ làm hạ thấp chính mình.

Việc Daisy có muốn tán tỉnh thầy hay không là điều tôi thấy trước, rõ tới mức tôi báo cho ngài hay về cá tính ưa mưu mẹo của cô nàng. Tuy vậy ngài chỉ cười và nói rằng ngài không dễ bị mù quáng vì sự hấp dẫn của nữ giới, và câu chuyện chấm dứt như thế vào lúc này. 

Tới một hôm tôi tình cờ gặp cô Dickenson, người vẫn nói rằng mình là bạn gái duy nhất của Daisy, cô kể tôi nghe vài chuyện làm tôi nhớ lại những dự đoán của mình. 

– Cái ông thầy khắc khổ của anh không có vẻ cứng cỏi sắt đá như người ta tưởng đâu, cô mào đầu. 

– Trời, tôi đáp, chuyện gì xẩy ra vậy? 

– Anh chưa nghe gì về Daisy và ông thầy của anh sao? 

– Không nghe thấy gì lạ hết. 

– Vậy anh chậm chạp hơn người rồi. 

– Chắc thế, tôi đáp và giả vờ không quan tâm đến chuyện chút nào. 

– Anh không có nghe là ông say mê cô nàng, còn Daisy thì giả vờ là lo lắng sợ hôn phu cô nàng biết được à? 

Tôi tức điên lên trong bụng. 

– Ai bảo cô thế? Tôi hỏi có chút gắt gỏng. 

– Tin tôi đi, ai cũng nói vậy hết, cô đáp. 

– Chuyện vớ vẩn, tôi nói. 

– Có gì mà anh phải bực chứ, cô bảo. 

– Daisy luôn luôn đùa trò này, tôi không còn thấy nó hay ho gì nữa, tôi quạt lại với cơn giận chưa nguôi. Tán tỉnh thì cũng được đi, nhưng khi cô nàng giả vờ là có người si mê mình, rồi tỏ ý bực vì điều ấy thì quá lắm. Tôi chắc chính Daisy kể chuyện này cho cô hay phải không? 

Tôi hỏi dịu hơn một chút. Cô Dickenson ngập ngừng. 

– Đúng thế rồi, tôi đoán ngay, đây này, tôi cá với cô bất cứ điều gì cô muốn là thầy Moreward không si mê Daisy chút nào. 

– Đừng tưởng bở, cô đáp. 

Sau đó tôi sang chuyện khác. Nhưng khi gặp được thầy tôi kể lại cuộc nói chuyện trên, và thêm cả việc tôi bực mình rất nhiều, thầy lại cũng chỉ cười tỏ vẻ thú vị nhẹ nhàng, làm như thể ngài không thấy gì khác ngoài khía cạnh khôi hài của sự việc. 

– Sự bực bội tỏ ra con là người hào hiệp, nhưng phí công, sau một lúc ngài bảo. Tức tối giùm cho thầy để chi, khi chuyện không gây cho thầy chút bực tức nào? 

– Nhưng con nghĩ hẳn là thầy phải bực, tôi đáp. Daisy đáng bị trách mắng vì lòng vô ơn của cô. 

– Luật nhân quả trừng phạt con người theo cách riêng của nó, ngài nói nhẹ nhàng, vì vậy không cần ai phải lo việc trừng phạt người khác bằng cách tỏ ra giận dữ hay có thái độ gì khác. 

– Nhưng con nghĩ không ai nên để cho người lợi dụng bạn của mình, tôi vẫn nài. 

– Có lúc người ta nên can thiệp, nhưng cần gì phải bực tức? Nếu con mèo kêu trong phòng thì đem nó ra khỏi phòng, nhưng đừng la mắng nó. Bản tính của mèo là kêu meo meo, cũng như bản tính của vài người là vô ơn vậy. 

– Con ước phải chi con có được triết lý như thầy, tôi nói với lòng thán phục. 

Ngài mỉm cười đồng ý nhưng chỉ có vậy và làm ngơ với lời khen. 

– Mọi chuyện tự nó không có gì đáng bực, ngài trầm ngâm tiếp theo. Người lớn không bực dọc đối với chuyện làm trẻ con bực tức, vì người lớn gần niềm vui tự nhiên hơn đứa trẻ một chút. Để cho ai đó hòa hợp cái trí của họ với hạnh phúc bên trong thì không có điều gì trên mặt đất có thể làm họ tức tối hay buồn rầu. 

– Chuyện đó khó làm, tôi tỏ ý nghi ngờ.

– Thời gian và gắng công sẽ đạt được mọi chuyện, ngài đáp. Còn đối với cô Daisy, cô cần được con thông cảm hơn là tức giận. 

– Sao thế? tôi hỏi với vẻ kinh ngạc. 

– Cô sẽ bị sầu não vì chính lòng tức giận của mình, vì lòng kiêu hãnh bị tổn thương. Hành động của cô mang lại sự trừng phạt cho cô, ngài nói. 

Và chuyện xẩy ra y như tôi biết chẳng bao lâu sau. 

Tôi không gặp Daisy đã lâu, nên tới chiều hôm nọ tôi đến nhà cô và được mời vào phòng khách. Tôi hài lòng thấy không có ai khác đến thăm, Daisy đang không vui chút nào và không che dấu việc ấy. Tôi hỏi cô chuyện gì làm cô không vui, nhưng cô gạt phắt nên tôi đổi đề tài, chiến thuật nhỏ bé này vậy mà lại hiệu quả. Sau khi ừ hử chiếu lệ về mọi chuyện mà tôi nghĩ ra để nói, Daisy cuối cùng phun huỵch toẹt điều bí ẩn làm cô bực mình. 

– Bạn anh thiệt là quí hóa dữ a, cô buột miệng. Tôi chưa hề bị đối xử tệ như vậy bao giờ. 

Tôi nói với cô nhẹ nhàng là tôi có nhiều bạn, và tốt hơn cô nên nói rõ đó là bạn nào. 

– Ồ, cái ông mà anh gọi là nhà hiền triết, là triết gia, là cái chi chi đó, cô nói sẵng. Coi này, cô lục trong ví và đưa tôi xem bức thư. Tôi cầm tờ giấy, nhận ra ngay nét chữ. Thư viết như sau. 

Bạn thân mến, 

Tôi e ngại là mỗi chúng ta sẽ theo đuổi mục đích khác nhau trong mối liên hệ giữa bạn và tôi, trừ phi cả hai chúng ta nên rõ ràng hơn về chủ ý riêng biệt của mình. Trong những tuần vừa qua tôi có ám chỉ bạn vài điều mà tôi hết sức mong mỏi là bạn hiểu ý và tôi không cần phải làm gì thêm, hầu tránh cho bạn không bị ngượng ngùng và bực dọc là hai điều sẽ dễ dàng sinh ra do việc phơi trần những sự kiện không thể phủ phận được. Tuy nhiên hy vọng của tôi không thành và vì thế tôi bắt buộc phải viết thư này (mà cùng lúc xin bạn thứ lỗi) để cho bạn hay, là chỉ dạy về khoa minh triết bí truyền và chân lý cao hơn phải chấm dứt ở đây, vì bạn đã tự mình đóng cánh cửa đầu tiên trên con đường dẫn tới sự hiểu biết. Thực tình mà nói, chủ đích của bạn ngay từ đầu là không muốn mở cánh cửa này chút nào, mà chỉ để tìm cách được thân cận rõ rệt hơn với tôi, dùng việc học hỏi Minh Triết Thiêng Liêng như là cái cớ để thực hiện ý định của mình. 

Điều này có thể tha thứ được về một khía cạnh nào đó (tuy không thành thật), tôi nói vậy một cách tương đối vì mọi sơ sót của con người đều có thể được tha thứ đối với ai có tâm hoàn toàn khoan dung, nếu bạn được thúc đẩy vì động cơ yêu thương, thay vì lòng kiêu hãnh mạnh mẽ không chối cãi được. Nhưng bởi đó lòng kiêu hãnh, nên tôi không thể vì bất cứ lý do nào khuyến khích một tính chất trong người bạn mà chẳng chóng thì chầy sẽ làm bạn vấp ngã, và tôi bắt buộc phải cho bạn hay sự việc mà không có chút mù mờ nào. Ba lần bạn viết thư cho tôi đầy lời trách móc về chuyện tôi không đến thăm thường xuyên, và nói rằng đối với bạn tôi không tỏ ra là vị thầy có nhiệt hứng, trong khi tôi lại đầy nhiệt tâm với bà H. Bạn ghi với lòng thiếu độ lượng là bà H. không là học viên xứng đáng bằng bạn, vì bà có 'quá khứ'. 

Bạn thân mến, xin để tôi vạch ra cho bạn thấy là có 'quá khứ' loại này mà cũng có 'quá khứ' loại kia, và ai thương yêu nhiều thì được tha thứ nhiều, bởi tôi muốn thêm rằng một trái tim thương yêu thật sự là đức tính tốt đẹp hơn hết trong mọi đức tính đòi hỏi trên đường dẫn tới sự hiểu biết. Vô số những cuộc tình của bạn (nếu tôi được phép ám chỉ tới chúng), không phải là 'chuyện tình', mà chỉ là  'chuyện kiêu hãnh', và đó là sự phân biệt đáng tiếc. Bạn đã chìu theo hành động gây đau khổ là gợi nỗi đam mê về tình yêu của phái nam mà không có chủ ý muốn thỏa mãn họ, và bạn tìm cách theo đuổi cùng ý đó với tôi mà không thành công, vì đam mê tan biến mất cho ai ưa chuộng những việc khác thú vị hơn.

Vì vậy, cái quá khứ mà bạn gán cho người khác không suy nghĩ lại chính là điều mà bạn chưa đủ mạnh, chưa đủ quên mình để làm. Lòng kiêu hãnh lôi kéo bạn theo hai đường cùng một lúc, vì bạn thèm muốn nghe được lời thương yêu rót vào tai bạn không dứt, làm thỏa mãn một phần lòng kiêu hãnh của bạn mà không cần phải đáp trả lại bằng bất cứ điều gì, hầu giữ được tiếng tăm không hoen ố, và tỏ ra rằng mình là bà hoàng ở ngoài tầm tay của mọi người, và làm vậy thỏa mãn một phần khác của lòng kiêu hãnh. Sự việc là vậy, thế thì tôi là một thành viên khiêm tốn của nhóm Huynh Đệ chỉ quan tâm tới điều duy nhất là sự tiến bộ tinh thần của nhân loại và không là gì khác, có thể nào dùng thì giờ của tôi để chỉ dạy bạn minh triết mà bạn không hề có ý muốn học? Nếu bạn thật tình có ý muốn đó thì ngay cả lòng kiêu hãnh của bạn cũng không gây trở ngại cho sự chỉ dạy của tôi, vì trước hay sau nó cũng sẽ tự mình tan biến khỏi con người của bạn. Nhưng vì bạn không có ý đó, tôi đành phải không là người chỉ dạy nữa, mà trong tương lai chỉ còn là thân hữu đúng nghĩa của bạn. 

Kính thư, 

J.H.M. 

– Lá thư thiệt hay, tôi nói một cách khô khan lúc đọc xong, hay tới nỗi tôi muốn giữ nó. Nhưng tôi ngạc nhiên là tại sao cô lại đưa tôi xem, tại vì nó gây ấn tượng xấu về cô hơn là về thầy. 

Nghe vậy Daisy Templemore giận quá nên cô quên phứt việc đòi lại thư, và kết quả là bức thư còn nằm trên bàn giấy của tôi tới ngày hôm nay. Cũng kể từ đó tình thân giữa hai chúng tôi bị lạnh nhạt đi một chút, có lẽ đó là sự trách móc duy nhất của cô. Còn đối với thầy Moreward, lần sau gặp thầy dĩ nhiên tôi nhắc đến việc có đọc lá thư, và nhắc lại vài lời trách cứ rất đúng trong thư. Nhưng thái độ của thầy với lá thư và với Daisy cho tôi thấy là nếu cây bút viết lời trách cứ thì tim ngài lại không chứa ý gì, bởi sau khi nói đến cô với sự nhẹ nhàng rất mực, thầy kể tôi nghe một câu chuyện xứ Ấn. 

– 'Ngày xưa có một con rắn lớn, thầy bảo, sống trong cái cây ở bên đường, và tấn công rồi sát hại bất cứ ai đi ngang qua. Tới ngày kia, một nhà đại hiền triết ghé lại và hỏi tại sao nó thích làm chuyện ác độc như thế, ông vạch ra kết quả là chẳng lâu thì mau nó sẽ tự chồng chất nỗi đau khổ cho mình. Nghe vậy con rắn hứa là sẽ không còn tấn công người nữa, và nhà hiền triết bỏ đi. Vài tuần sau ông trở lại thấy con rắn lần này thật thiểu não, ông mới hỏi chuyện gì xẩy ra. Con rắn nói, 'Ô, thánh nhân ơi, tôi nghe lời ngài và ngài hãy coi kết quả đây, khi tôi ngưng tấn công khách bộ hành thì họ lại tấn công tôi làm tôi ra nông nỗi này'. 'A', nhà hiền triết đáp với nụ cười đầy tình thương, 'Ta dặn rắn chỉ đừng chọc phá người, ta không bảo đừng làm họ sợ nếu họ tìm cách lợi dụng rắn'. 

– Vậy lá thư của thầy chỉ là để làm Daisy sợ? Tôi hỏi và phá ra cười. Nhưng hẳn là thầy phải đoán ra bản tính thật của cô ngay từ đầu? 

– Suy đoán và tiên đoán theo phép tâm linh đều không phải luôn luôn đúng, ngài nói nhẹ nhàng. Con có thể dẫn đi chơi một con chó rất hung hăng, và khi thấy đằng xa có con chó khác, con tiên đoán có phần chắc chắn là sẽ có cắn nhau nhưng rốt cuộc không có gì xẩy ra, có cả chục chuyện can thiệp làm ngăn lại. 

Tôi bật cười trước thí dụ này. 

– Thành ra, ngài tiếp tục, chúng ta không bao giờ từ chối ai ở cửa, chúng ta tiên đoán tỉ lệ có thể bị sai. Sao đi nữa, thầy tiên đoán là chẳng bao lâu cô Daisy sẽ bị nặng nợ vì có 'quá khứ'. Cô sẽ thành hôn với chàng sĩ quan của cô và sẽ ly dị trong vòng ba năm. 

Quả thật chuyện xẩy ra y vậy. 

 

CHƯƠNG  8

LINH  MỤC  WILTON

 

Linh mục Wilton là người tiêu biểu cho giới của ông, bữa ăn tối nào cũng có món ngon kèm một hai ly rượu hảo hạng và do thế hóa đẫy đà. Ông nói đẩy đưa vài chuyện đạo với giáo dân nào có nhan sắc dễ coi, nhưng ta chớ quên thêm rằng ông nói chuyện mà như giảng kinh. Giáo hội Anh cho phép linh mục có gia đình và ông lập gia thất rất sớm lúc mới có 21 tuổi. Dầu vậy khi tôi biết ông thì linh mục đã góa vợ, chỉ có một mụn con gái với người trong họ đạo tin là rất được ông cưng chiều. Thế nhưng thầy Moreward nhận xét một cách khô khan tuy đầy lòng khoan dung vốn có của ngài, là ông thương con một cách ích kỷ, không hợp chút nào với lời Chúa. Lòng ân cần của ông đối với con chỉ là tìm cách nhốt cô trong bốn bức tường thành kiến rất đỗi nhỏ hẹp của ông về tôn giáo, chính trị, văn chương, nghệ thuật hay gì gì khác. Cùng lúc ấy ông tế nhị cấm con có bạn thân (chưa kể  tới người khác phái). Nói ngắn gọn thì theo nhận xét của ngài, 'ông không thương con gái mà thương chính mình qua cô'. 

Kết quả của chuyện này là tuy ông đòi hỏi con phải tỏ ra hết sức chăm sóc cha, cô chỉ đáp lại bằng vẻ thương yêu ngoài mặt rất là gượng gạo. Nói tách bạch thì cô Gertrude thấy ba là người rất chán vì phải dấu lén lút những nỗi vui thích tự nhiên và vô hại của cô, lỡ ông biết ra sẽ hóa phiền lòng và giảng cho một trận. Chiều tối mỗi ngày, nếu may sẽ có giáo dân nào đó đau ốm tới gặp linh mục, còn không thì ông viện cớ là thương yêu lo lắng con, bảo cô thuật lại hết việc làm trong ngày của cô. Ta có thể tưởng tượng là nếu cần thì cô sẽ nói quanh co không ít hoặc ngay cả chuyện không thật. Ai nấy đều biết vậy, luôn cả những người giúp việc trong nhà luôn sẵn lòng giúp cô hết mình vì yêu quí Gertrude, chỉ có ông bố làm như không thấy gì, an lòng sống hân hoan không chút nghi ngại. 

Điều quan trọng, ít ra đối với tôi trong chuyện này, là tôi có cảm tình với Gertrude. Khi thấy khó mà được nói chuyện thoải mái với cô trong cảnh như vậy, tôi cầu viện thầy Moreward có thiện cảm muốn giúp đỡ, phụ một tay. Ngài chìu ý, bằng lòng ngồi nghe thường xuyên những bài giảng đạo đức giả chán ngấy của linh mục, tỏ ra chăm chú làm tôi phục lăn. Hễ có dịp là thầy gợi ý để linh mục thao thao trong phòng ăn, cho tôi cơ hội nói chuyện riêng tête à tête với Gertrude; nhưng hai người thảo luận gì thì thầy ít khi kể chi tiết cho tôi nghe, tôi chỉ biết là linh mục thường đỏ mặt tía tai lúc xong chuyện. 

Như đã nói, tôi muốn viết thật ít về mình khi thuật lại cảm nghĩ của tôi đối với thầy, nên ai muốn đọc chuyện về tình thân của tôi với Gertrude sẽ thất vọng, chương này nhiều phần chỉ liên quan đến việc thầy Moreward cải hóa linh mục Wilton, và cách thức ngài làm được chuyện ấy theo những chi tiết mà ngài thuật lại cho tôi nghe. Thói quen của chúng tôi là sau khi dự bữa tối ở đó về, chúng tôi thường đi bộ băng qua công viên, trong lúc đi như vậy thầy hay bàn về cuộc đàm thoại với ông. Tôi nhớ sau bữa ăn đầu tiên của ba người chúng tôi, thầy Moreward thốt ra vài cảm nghĩ của ngài.

– Chuyện lạ với một số người có khuynh hướng tôn giáo, thầy nói, là nếu ta trình bầy đạo giáo của họ một cách hợp lý thì họ hết sức kinh ngạc. 

Tôi thấy chuyện có vẻ hay nên xin ngài giảng thêm. 

– Thế này, thầy dành hơn một giờ tìm cách chứng minh cho linh mục điều ông tin, mà thay vì mừng là niềm tin được chứng nghiệm, ông chỉ cho rằng thầy nói quàng. 

Tôi cười lớn. 

– Ông tin có đời sống sau khi chết, thầy tiếp tục, nhưng lại xem việc tìm hiểu như chết rồi đi đâu, khi nào, ra sao, là tội lỗi phải tránh. Có trích lời thánh Paul rằng 'Niềm tin tự nó cũng tốt, nhưng kèm với hiểu biết thì tốt hơn' cũng không làm ông thay đổi ý kiến. Linh mục dốt đặc về ý nghĩa thực trong thánh kinh. 

– Xin thầy kể tiếp, tôi giục, thầy còn bàn chuyện gì khác nữa? 

– Rồi tới câu hỏi về tình thương. Nào, Thiên Chúa giáo chính yếu là tôn giáo về tình thương, vậy mà chẳng những không có tình thương chân thật trong tâm (hào quang ông nói rõ điều ấy), linh mục còn nghĩ việc quan tâm chăm sóc người khác chưa hẳn là việc nên làm, trừ phi đó là vợ con mình. 

– Còn Thượng đế thì sao? 

– À, đó mới là chuyện đáng nói, ông bảo rằng con người chỉ cần thương yêu Thượng đế thôi. 

– Mà ông có làm vậy chăng? 

– Làm sao được? Nếu con không có tình thương trong lòng, làm sao con biết thương yêu? 

– Hẳn vậy rồi, tôi đồng ý. 

– Thành ra thầy dùng chính tôn giáo của ông để giải thích, nói rằng Thượng đế là sự thương yêu như thánh kinh đã dạy, do đó khi tâm hồn càng có nhiều tình thương do vun trồng, thì con người càng biểu lộ Thượng đế nhiều hơn, càng hòa hợp với Thượng đế chừng ấy. 

– Và ông có nhìn ra được vậy không? Tôi hỏi. 

– Ồ, không được, ngài vừa cười vừa đáp. Thầy cố công chỉ cho ông thấy rằng yêu mến Thượng đế là hòa hợp với lòng thương yêu vô điều kiện, và tình cảm đó cũng phải bao trùm nhân loại vì nhân loại là một phần của Thượng đế, nhưng vô ích. Ngay cả lời Chúa dạy 'Bằng điều này mọi người sẽ biết các con là đệ tử của Ta, nếu các con thương yêu nhau', cũng không thuyết phục được ông. 

– Với con gái ông thì sao? Tôi hỏi. 

– Ông tưởng tượng là mình thương con, nhưng tình thương của ông đúng ra chỉ là lòng ích kỷ. Ông không hề nghĩ đến hạnh phúc của con, lúc nào cũng phập phồng sợ con lấy chồng bỏ ông cô độc, sợ cả tình thân của con với các bạn gái. Thầy tội nghiệp ông nhiều, ông không có hạnh phúc và thầy cám ơn con đã cho thầy cơ hội cố gắng sửa đổi quan niệm đáng buồn của ông. 

Lần kế khi thầy Moreward và tôi băng qua công viên trên đường về sau buổi tối ở nhà linh mục, nghe lời thầy thuật chuyện tôi đoán là câu chuyện tối hôm ấy xoay quanh lòng từ thiện. 

– Con có để ý thấy chăng, ngài nói một cách tư lự, ngoài việc bố thí tiền bạc người ta hiểu rất ít về lòng từ thiện. Thánh kinh đáng lẽ phải ghi là 'Đức hạnh cao cả nhất là lòng khoan dung', vì khoan dung có giá trị hơn hết trong mọi đức tính.

Tôi xin ngài dạy thêm.

– Trong giáo đường người ta giảng nhiều về lòng tha thứ, nhưng nếu chịu giảng nhiều hơn nữa về lòng khoan dung thì lòng tha thứ sẽ hóa ra không cần thiết. Ai khoan dung tột bực không hề cần thấy phải tha thứ theo nghĩa thường tình, vì trọn thái độ của họ với nhân loại là không ngừng tha thứ, tha thứ sự lầm lỡ của anh em mình trước khi họ phạm lỗi. 

Ngài trầm ngâm giây lát rồi tiếp tục câu chuyện. 

– Tình thương hoàn toàn và lòng khoan dung trọn vẹn không tách rời được nhau, không ai có thể thực lòng thương yêu người khác mà cùng lúc cảm thấy muốn lên án họ. Vì cảm nghĩ muốn lên án không gì khác hơn là lòng ghét bỏ, dù ít oi hay ngắn ngủi thế mấy. Thánh kinh nói rất đúng là ai nặng lời với anh em mình là phạm tôi có thể bị chết thiêu, bởi lẽ sự thù ghét thường sinh ra việc giết người. 

– Vậy thái độ của thầy ra sao về tội lỗi? Tôi hỏi. 

– Tội lỗi là một hình thức của sự khờ dại trẻ con, ngài nói một cách nhẹ nhàng, nó là đường vòng dẫn đến hạnh phúc tinh thần thay vì đường thẳng; nhưng có nên lên án một đứa bé vì sự khờ dại non nớt của nó chăng? 

Tôi xin ngài nói rõ hơn. 

– Đứa trẻ chưa biết gì đút tay vào lửa và bị phỏng. Nó phạm lỗi và sự đau đớn dạy nó một bài học. Nhưng tại sao nó đút tay vào lửa? Vì đứa bé muốn được vui sướng mà đi lầm đường. Người lớn chỉ khôn hơn một chút, họ không đút tay vào lửa nhưng làm bạc giả. Người đó cũng đi tìm sự khoái lạc và cũng chọn đường sai, và khi bị khám phá ra thì họ cũng phải chịu đau khổ. Thành ra mọi tội lỗi chẳng qua chỉ là việc tìm kiếm hạnh phúc theo hướng bậy, và tất cả ai phạm lỗi chỉ là trẻ con sẽ trưởng thành mai sau. Có lòng khoan dung là nhìn nhận sự kiện này. 

– Còn việc trừng phạt thì sao? Tôi hỏi. 

– Trừng phạt chẳng khác gì hơn làm một cách trả thù, bởi vậy để người này trừng phạt người kia chỉ là thêm một điều sai lầm này vào điều sai lầm khác. Nói về trừng phạt theo luật pháp thì kẻ tội phạm chỉ nên bị ngăn cấm và được cải huấn bằng lòng nhân và việc làm gương, mà không bao giờ nên trừng phạt. 

– Phải đó là ý thầy nói với linh mục tối nay không? Tôi hỏi với chút thích thú. 

– Gần gần vậy, ngài nói yên lặng. Và tôi nghe kể rằng bài giảng của linh mục vào chủ nhật sau đó là bài hay nhất từ trước tới giờ của ông. Sự thực là thầy Moreward đang cải hóa ông và khi tôi có dịp gặp Gertrude, cô hân hoan thấy rõ, bảo là cha cô đổi tánh. Cô nói 'Ba đang từ từ có lòng nhân hơn'. 

Thế rồi buổi tối nọ xẩy ra việc làm tôi hết sức lúng túng. Thật tình mà nói tôi say sưa nghe Gertrude kể chuyện nên cả hai chúng tôi không biết là linh mục và thầy vào phòng, vào lúc chúng tôi ngồi có hơi thân mật với nhau một chút. Ông kinh ngạc và tức giận, đuổi con gái về phòng với cớ không đâu mà tôi quên mất là cớ gì, rồi sạt tôi một cấp không chững chạc gì hết. 

– Có phải anh, ông lập bập, lợi dụng lòng hiếu khách của tôi để quyến rũ con gái tôi mà không hỏi ý gì tôi ư? 

Tôi tin chắc là khi ấy trông tôi hết sức ngượng ngập, bối rối chẳng ra thể thống gì cả, tới nỗi thầy Moreward đưa mắt tỏ ý 'Để đó cho thầy liệu', và lên tiếng giải nguy cho tôi. 

– Nào, nào, thầy nói êm ái vuốt ve, đặt tay lên cánh tay linh mục, thân mật một chút không phải là cái tội mà ta phải coi ấy là đức hạnh. 

Nhận xét này làm linh mục không biết đáp lại sao cho phải, ông lúng túng lẩm bẩm chuyện không ăn nhập vào đâu, rồi đột nhiên ông bắt được ý.

– Thực là lừa dối, thầy coi, gạt người ! ông nói to. Thầy có biết là con gái tôi và anh này không chừng đã qua mặt tôi mấy tuần nay? 

Nhưng thầy Moreward có câu trả lời ngay, thốt ra với sự bình thản làm xoa dịu tuyệt vời. 

– Linh mục này, sự dối gạt chỉ là khí giới cho ai bắt buộc dùng phải tự vệ khi bị đòi hỏi quá nhiều.

Linh mục bập hàng răng giả phát ra tiếng tỏ ý nóng nẩy, vì ông cũng không nghĩ ra ngay lời ứng đối. Ngài nói tiếp vẫn theo cung cách dịu ngọt. 

– Không phải là ông đòi hỏi con gái phải quên mình quá nhiều sao? Không phải ông ngăn cấm con chuyện mà có lẽ theo ý cô là hoàn toàn vô hại? Nếu vậy tôi nghĩ ông khó mà trách cô, vì ông không làm cho cô tin là nó có hại. Tôi tin chắc là với người rành tâm lý như ông có thể hiểu được quan điểm của cô gái. Không phải là nhiều lần cô có ý nghĩ 'Thật tình tôi không thấy tại sao không nên làm chuyện này hay kia, nhưng ba với tôi không cùng một ý thành ra tốt nhất là đừng nói gì hết để cho ba khỏi bực' hay sao? 

Linh mục bắt đầu dịu xuống vì không ai có thể giận lâu khi đối mặt với thầy. Ông nói buồn bã có chút trách móc. 

– Phải thầy có a tòng trong chuyện này không? 

Ngài cười đáp. 

– Tôi muốn làm một công ba chuyện. Phải, ngài thêm vào với lòng khiêm tốn, tôi xin thú nhận là cũng có lỗi ở đây. 

Linh mục không hiểu lời ví von nên ngài giải thích. 

– Linh mục này, ông tha lỗi nếu tôi bảo là tội nghiệp cho con gái ông, và theo tôi nhận xét thì cô không vui, cô là tù nhân chứ? 

– Không vui, tù nhân? linh mục lập lại có hơi kinh ngạc. 

– Nào, tuy tôi biết chắc rằng ông là người thật tốt lành, thầy nói tiếp vẫn với y cung cách, nhưng quan niệm của ông về hạnh phúc cho con, và quan niệm của riêng cô, khác nhau hẳn. 

– Tôi là người thương con, làm tròn bổn phận của mình, cho con tiền chi xài rộng rãi, linh mục ngắt lời, còn muốn gì nữa? 

– Hãy để cô có vài điều mà chính ông không thể cho, thầy nói xuôi rót. 

– Tôi không hiểu, linh mục đáp. 

– Ông có thể để cô nhận tình thương mến của người khác, cho cô tự do suy nghĩ, tự do hành động hơn. Nói tóm tắt là để con gái có hạnh phúc riêng theo cách của cô. 

– Nhưng giả dụ là tôi thấy cách đó sai? 

– Khi ấy ông có thể khuyên con một cách thân tình là hãy xem xét sự việc theo quan điểm của ông, mà nếu cô không theo lời khuyên nhủ thì ông không có hành động gì thêm. 

Linh mục không biết đáp sao lúc ấy. 

– Nói về lỗi của tôi trong chuyện này, thầy Moreward tiếp tục, tôi tìm cách thay đổi quan niệm của ông về một số điều, vì tôi biết việc ấy mang lại sự bình an. Tôi muốn tỏ tình quí mến với anh Charles đây, bằng cách trò chuyện với ông để anh có thể nói chuyện riêng với cô Gertrude, và tôi ráng giúp con gái ông vui qua việc xếp đặt để cô có thể hưởng được tình bạn của người đáng quí. Vì vậy tôi mới bảo làm một công ba chuyện. Ông tha lỗi cho tôi chứ? Thầy cười và thêm vào. Và trên hết thảy, tha lỗi cho con gái và anh chàng đây. Tôi nghĩ chắc chắn ông sẽ thuận theo, vì việc trước tiên mà người thật tâm sùng đạo Thiên Chúa làm là tha thứ. 

Linh mục còn có thể làm gì khác hơn là tha thứ? Hay ít nhất tỏ ra như thế ngoài mặt, vì thầy Moreward biện luận khéo léo tới nỗi nếu ông tiếp tục giận thì chứng tỏ ông không phải là tín đồ Thiên Chúa giáo thật lòng. Về phần tôi, tôi ngồi yên lạ lùng trong suốt cuộc đối đáp, không ngừng tạ ơn Trời đã cho thầy gỡ rối chuyện thật tệ hại tôi đã gây ra. Kết cục là tôi thoát nạn, chỉ bị trách mắng sơ sơ với ẩn ý là chuyện không có gì nói thêm lúc này. 

Khỏi cần phải nói, khi thầy Moreward và tôi băng qua công viên trên đường về vào tối hôm ấy, tôi tỏ lòng biết ơn nồng hậu chừng nào, tôi lại càng biết ơn khi chẳng bao lâu sau thầy lại có việc giúp tôi nữa. Mấy ngày sau thầy hỏi tôi. 

– Con không có ý thành hôn với Gertrude, và cô cũng  nghĩ vậy đối với con phải không? 

Tôi thưa là ngài nhận xét đúng. 

– Nói khác đi, đôi bên chỉ có lòng quí mến mà không sôi nổi tha thiết? 

Tôi thưa vâng. 

– Vậy thầy sẽ nói chuyện với cha cô xem sao. 

Diễn biến sau đó và chuyện bất ngờ xẩy ra vài tuần sau được thuật trong chương kế. 

 

CHƯƠNG 9

TRIẾT  LÝ  VỀ  SỰ  TỬ

Sau vài cuộc nói chuyện giữa thầy Moreward và linh mục, theo đó ngài trấn an ông rằng tôi không có ý định muốn thành thân với cô Gertrude khiến ông phải xa con, có thỏa thuận là tình bạn giữa cô và tôi không bị trở ngại gì, miễn là trong tương lai tôi cư xử đàng hoàng phải phép, linh mục bảo thế. Thật sự là không có trở ngại nào thấy rõ được gây ra trong tình thân của hai tôi, nhưng có nhiều ngăn trở tế nhị đặt ra mà việc rõ rệt nhất là tôi không còn được mời dự những bữa ăn tối. Về phần Gertrude thì cô được phép tiếp chuyện khi tôi đến chơi, hồi đáp lại thư tôi gửi đến, và chào hỏi khi hai chúng tôi gặp nhau ở nhà người khác, nhưng ông muốn là cô cho ông hay tất cả những chuyện này. Hơn thế nữa, để bảo đảm là cô không quên thưa lại với cha, mỗi ngày linh mục đều hỏi con là có gặp tôi, nghe tôi nhắn gửi gì không và đủ mọi chuyện tương tự. 

Nếu cô trả lời 'Có' thì ông sụ mặt cau mày suốt buổi tối, còn nếu cô đáp 'Không' thì linh mục không nhắc đến chuyện nữa. Tóm tắt thì ông xử sự như con nít, hay ta có thể nói như thiếu phụ rất đỗi khờ dại ghen tương với chồng. Tình trạng như thế kéo dài một thời gian, cho đến khi có một việc nhỏ xẩy ra khiến câu chuyện đổi hướng. Gertrude mua một món quà sinh nhật cho tôi và cố ý không cho ông hay, tuy nhiên linh mục biết ngày sinh nhật của tôi vì có một buổi tối tôi nói về sự trùng hợp giữa ngày sinh của tôi và một biến cố lịch sử mà linh mục rất chú ý. Không may là ông nhớ chuyện và tỏ vẻ thản nhiên hỏi cô: 

– Con có cho ông Charles quà sinh nhật không? 

Gertrude bắt buộc phải thưa là có, lập tức một màn la lối ào ào diễn ra đổ ập xuống khiến cô phải phản đối và nói cho ba rõ cảm nghĩ của cô ra sao. Khi thầy Moreward tới gặp ông lần kế, linh mục không ngớt than phiền về con và việc cô dấu chuyện mà không có lý do. Sau này thầy kể rằng ngài lắng nghe với đầy thiện cảm, rồi cố gắng đem việc dạy ông sang giai đoạn kế. Linh mục nói một cách cay đắng. 

– Tôi không can thiệp vào chuyện bạn bè của con, vậy mà tôi được trả ơn như thế. Con tôi lánh xa tôi. 

Thầy Moreward thông cảm, cười và bảo. 

– Có hai cách can thiệp, hoặc thô lỗ hoặc tế nhị, chắc là ông can thiệp kín đáo? 

– Làm sao? linh mục giả vờ không hiểu. 

– Có lẽ cái giá mà cô phải trả cho việc giữ kín không cho ông hay là không được ông thông cảm?

Linh mục lặng im cho thấy sự việc đúng thế. 

– Ông thấy không, trước hết cô Gertrude phải trả giá cho tình bạn của cô bằng sự khó chịu vì ông tỏ vẻ không vui; kế đó cô phải chịu đựng thêm khi ông lộ sự bực dọc hơn nữa lúc cô thưa thật với ông, ông bắt con phải thú thật vì cật vấn không ngừng. Nói khác đi con gái ông xử sự cách nào cũng không thoát. 

– Hừm ! linh mục lẩm bẩm. 

– Chuyện là thế, tôi tin chắc ông sẽ thứ lỗi nếu tôi vạch ra là thái độ của ông khiến cha con xa cách nhau, và Charles chỉ đóng vai rất nhỏ không quan trọng trong việc này. 

Bởi không sao trả lời được lý lẽ ấy vì nó được đưa ra một cách nhẹ nhàng đầy sức khuyến dụ, hòa hoãn, linh mục không có gì để nói; thật vậy, ông trầm ngâm thẫn thờ nhìn vào ngọn lửa lặng thinh không đáp. 

– Nào, thầy Moreward tiếp tục khuyên lơn hăng hái, không phải đây là cơ hội tốt đẹp được đưa tới cho ông và con gái thân mật hơn với nhau sao? Cho phép cô vui hưởng tình bạn không lo lắng còn ông thì được mọi điều, nào là con gái thương yêu ông hơn, biết ơn ông, kính phục. Bằng nếu cấm đoán thì ông mất tất cả, vì không ai có thể thật lòng thương yêu người làm như cầm tù mình, ngay cả khi đó là cha của họ. 

Lẽ tự nhiên vì không có mặt để chứng kiến, tôi chỉ chắp nối lại theo lời kể của thầy là sau một cuộc tranh luận ngắn, linh mục tỉnh ngộ nhìn ra chân lý và quyết định làm theo sự giác ngộ này. Không ai biết là ông sẽ thành công hay không vì đột nhiên chuyện buồn xẩy đến. Một tuần sau đó ông bị nghẽn mạch máu não và chỉ trong hai ngày thì qua đời. 

Thầy Moreward cho tôi hay việc ấy, ân cần chăm chút đối với tôi vì biết là tôi bị chấn động, rồi đưa cho tôi lá thư của Gertrude gửi thầy. Thư viết. 

Thưa thầy, 

Con phải báo thầy một tin rất xấu. Ba con bị nghẽn mạch máu não và y sĩ sợ ba sẽ không thoát được, chỉ sống sót một hay hai ngày nữa thôi. Xin thầy đến với gia đình con, ba con tỏ ý muốn gặp thầy. Nhờ thầy cho anh Charles hay giùm, con mong được gặp anh nhưng thấy không thể kêu anh đến nhà vì con biết làm vậy sẽ gây buồn lòng cho ba. Xin thầy nhắn anh viết an ủi con vài giòng. Con không nói được thêm gì nữa, con rối lòng quá. 

Kính, 

Gertrude Wilton.

Tôi thấy tội nghiệp cô hết sức, và ân hận đã gây phiền lòng cho linh mục, nhưng thầy Moreward đoán được ý tôi. 

– Con chớ ngại, thầy nói, đặt tay lên vai tôi, con đã gián tiếp giúp ông một việc rất lành. 

Thầy ra về, còn tôi ngồi xuống viết ngay một thư dài thậm thượt nhiều trang cho Gertrude. Như thế, một chức sắc của Anh giáo vào lúc ly trần đã không cho mời đồng nghiệp của mình tới để an ủi, mà lại muốn gặp người nhìn nhận là không theo tôn giáo nào tuy tin vào hết mọi tôn giáo. Bởi thầy hiểu triết lý đích thực của sự chết và do đó an ủi được ông. Ngài tin vào tâm thức sau khi chết vì ngài biết nó, và có thể sinh hoạt ở cảnh ấy trong khi xác thân vẫn ở cõi này, và chỉ một lúc ngắn sau tôi chợt hiểu lẽ nào mình là nguyên nhân gián tiếp tạo chuyện lành đích thực cho linh mục Wilton. 

Tôi hiểu ra mình là người đã mang thầy đến với ông, dù thầy rất khiêm tốn chỉ nói đủ cho tôi an lòng. Tuy nhiên về sau ngài nói rằng tôi đã kích thích làm linh mục mở rộng trí não, nhìn cuộc đời theo quan điểm ít xét nét hơn và do vậy bớt ích kỷ hơn; cách nhìn ấy cũng giúp cho tâm thức của ông rất nhiều ở cuộc đời bên kia. Tôi không thể tả giờ phút ly trần của ông vì tôi không có mặt ở đó, nhưng sao đi nữa tới cuối thầy Moreward thuật lại rằng ông không còn sợ chết tí nào. Linh mục mừng là ông biết những chi tiết như làm sao, khi nào, chết rồi đi đâu khi giờ phút tới khiến ông phải đối diện với cái chết; bởi những lời phỏng đoán mơ hồ, không biết đúng sai của giáo hội thua kém hẳn so với hiểu biết của nhà huyền bí học.

Sau đó thầy Moreward giảng cho tôi. 

– Mỗi đêm khi ngủ ai cũng chết, và sống trở lại vào mỗi sáng. Người thường không nhớ được mình đi đâu nhưng ai được huấn luyện về khoa huyền bí biết rõ mình làm gì, ở đâu. Chỉ người như vậy mới nhớ được hết mọi chuyện vì do sự luyện tập họ nối được bộ óc xác thịt với thể tình cảm. 

Tôi hỏi cảnh sống của ba Gertrude ra sao ở cõi bên kia, thầy đáp. 

– Nói một cách tương đối thì có hơi tẻ nhạt. Ta không có ý chê trách nhưng cần nhìn thẳng vào sự kiện. Những khoái lạc của linh mục trong kiếp này phần lớn thuộc về vật chất, hoặc sinh từ cảm quan hoặc do lòng kiêu hãnh. Khi thể xác nặng nề bỏ lại thì đương nhiên là không còn chuyện ăn uống (và cũng không còn chức tước danh vị làm người khác tâng bốc ở cảnh này); chuyện duy nhất đáng kể là tình thương. Vì vậy sống trên đời mà không có tình thương là chuyện đáng tiếc theo đuổi con người sau khi chết. Niềm tin là không cần có tình thương, con à, là niềm tin tệ hơn hết thảy và khi qua đời ta sống bên kia mà không có tình thương thì giống như sống bên này mà không thở, chỉ là sống cầm hơi. Đó là ý nghĩa khi đức Chúa dạy rằng cô gái mãi dâm lại gần nước Trời hơn người giả hình Pharisee không có tình thương. Cái chết đâu làm cải biến tâm tính người. 

– Xin thầy dạy thêm, tôi năn nỉ. 

– Thể xác giống như áo choàng phủ rộng người ta trùm lên kẻ hành khất ăn mặc lôi thôi; khi cởi bỏ áo choàng thì tất cả sự rách rưới bên trong lộ ra hết, cái áo chỉ là vật bao trùm đầy ảo tưởng. Thế thì con người bên trong có thể khoác lấy thân xác oai nghi, nhưng khi hình hài tan rã thì tư cách nghèo nàn bầy ra trần trụi vì như thầy đã nói, chỉ những ai đầy tình thương mới không hóa rách rưới như hành khất sau khi chết. Đó là tại sao thầy khuyến khích mọi người thương yêu, như trường hợp của con và Gertrude. Cố nhiên ai dốt nát sẽ bảo rằng thầy khuyến khích việc trai gái đùa giỡn tình yêu với nhau, nhưng cứ để họ nói cho thỏa thích; ai muốn kết án thì viện ra đủ cớ khi vô minh tràn đầy. 

Tự nhiên là tang lễ linh mục diễn ra trọng thể, thầy bảo tôi một cách hóm hỉnh là ngài có thể thấy ông trong thể tình cảm quan sát mọi việc đầy mãn nguyện. Khi mọi chuyện xong xuôi hết thầy nói.

– Đúng lý ra thì biểu lộ lòng sầu não là chuyện kỳ quặc theo quan điểm của Thiên Chúa giáo. Chuyện như muốn nói người  ta mặc áo đen, khóc sướt mướt khi bạn hữu đi nghỉ hè. Thử nhìn cả giáo xứ, giáo dân ai cũng nghĩ linh mục đã về cõi trời đầy phúc lạc, vậy mà họ khóc lóc về chuyện lẽ ra phải mừng vui. Chẳng những vậy họ còn đặt hoa lên thân thể ông làm như đó là chính ông, không kể cả đời họ được nghe giảng rằng thân xác chỉ là quần áo còn linh hồn mới là con người  thật. Thầy chịu thua, không giải thích được sự bất nhất trong lối suy nghĩ của con người. 

Chỉ nhà huyền bí học mới ước lượng rõ thầy là nguồn an ủi cho Gertrude tới mức nào trong mấy tuần sau đó. Ngài tiếp xúc với cha cô và mang tin về, nhờ vậy chẳng bao lâu đánh tan ý nghĩ phân ly. Một hôm ông bảo ngài. 

– Sự việc khác xa những điều tôi tưởng, mà lạ quá, bỏ thể xác vướng víu lại là một nỗi vui. Dù vậy tôi vẫn ước ao phải chi đã làm bạn với nhiều người  hơn lúc sống. Người ở bên đây chói sáng rực rỡ đầy sự thương yêu làm tôi thấy nghèo nàn quá đỗi. Chuyện gì cũng lạ lùng hết. Trong một thời gian lâu sau tôi không biết là mình đã qua đời, nhưng rồi tôi nhớ lại hết những gì thầy đã dạy tôi. Nhờ thầy nói với Broadbent là tuy hắn làm tôi bực bội, bây giờ tôi mừng là hắn đã mang thầy đến với tôi. Hắn quí mến Gertrude là phải lắm. 

'Cả mẹ tôi và vợ tôi cũng có mặt ở đây và rất tốt đối với tôi, rồi thỉnh thoảng thầy lại đến thăm. Đó mới là chuyện lạ hơn hết thảy vì thầy vẫn còn tại thế, nói theo cách nói sai lầm của người  đời. Nói thiệt, đúng ra người  chết như chúng tôi đây mới là thực sự đang sống'. 

Và tới đây là chấm dứt câu chuyện về cái chết của linh mục Wilton. Về phần con gái ông và tôi, chúng tôi trở thành đôi bạn chân tình, quí chuộng nhau và không còn cảm xúc sôi nổi. Sự thực là trong một lúc lâu tôi như người mù không nhận ra là cô nẩy lòng kính mến thầy Moreward; mới đây tuy đã lập gia đình với một luật sư, cô thổ lộ với tôi là mình vẫn đầy lòng yêu quí 'người  khôn ngoan nhất và cao thượng nhất mà cô đã gặp từ trước tới giờ'. 

 

CHƯƠNG  X 

NỖI  ĐAU  KHỔ  CỦA  THIẾU  TÁ  BUCKINGHAM

 

Tôi thấy là nếu có ai đang sống mà có thể giúp an ủi và khuyên giải ông bạn Wilfred Buckingham về cảnh nhà rối rắm của ông thì người  đó phải là thầy Moreward, thế nên tôi đề cập ý này với cả hai người  và sau một chút lưỡng lự, Buckingham bằng lòng, cả hai được mang lại với nhau và tình thân hóa gần gũi hơn. 

Cảnh rối rắm của Buckingham là như sau. 

Buckingham lập gia đình sớm trong đời với người đồng tuổi mình và có cuộc sống chung khá hạnh phúc trong hai mươi năm qua. Hai vợ chồng không hề ngó ngàng đến người thứ ba nào trong suốt thời gian đó cho tới năm bà Buckingham được bốn mươi tuổi, đột nhiên bà si mê một người bạn thân của ông. Đôi nhân tình gặp gỡ nhau trong vài tháng mà không ai biết, nhưng sau đó chuyện hóa phức tạp hơn cho họ. Bà Buckingham thú thật với ông, rời nhà tìm chỗ khác vì bà có tài sản riêng của mình để sống đời tự do không vướng bận, gặp gỡ người yêu bất cứ khi nào bà muốn. 

Như ta có thể đoán, ông Buckingham bị dồn dập bao cảm xúc não lòng ùa đến: ghen tuông, giận dữ, tự ái bị tổn thương, sầu não và nhiều xúc động khó định nghĩa khác, dằng co con người chưa tiến hóa lắm của ông về mọi hướng cùng một lúc. Giống như những ai thấy kẻ khác chết quanh mình nhưng quên rằng ngày kia mình cũng phải chết giống vậy, ông đã thấy thảm kịch trong gia đình người  khác xẩy ra, mà không hề có phút nào nghĩ rằng thảm kịch tương tự có thể sẽ đến với ông. Thành ra ông không hề nghĩ là mình sẽ hành động ra sao trong trường hợp tương tự, và khi chuyện xẩy tới thì ông giống như đứa trẻ bị thảy vào chỗ nước xoáy mà không biết bơi. Lúc đó tôi mang thầy Moreward đến cứu, và bước đầu tiên của ngài là khuyến khích ông thiếu tá đến nhà ngài bất cứ khi nào ông muốn, xổ tung mọi tình cảm bị dồn nén bằng cách tuôn vào tai ngài, và cả tai tôi khi tôi có mặt, những mối lo nghĩ của ông.

Nhờ các buổi này mà tôi biết về quan niệm đáng nói và cao đẹp vô ngã của ngài về hôn nhân cùng những gì có liên hệ tới điều này. Quả thật tôi mù quáng nếu không ý thức là quan niệm của ngài có thể làm người câu nệ thói thường kinh ngạc, vì như ngài thường nói, đức tính khác thường làm kinh ngạc loại tâm trí câu nệ nào đó nhiều hơn là tật xấu thông thường. 

Buổi tối, chúng tôi thường ngồi nói chuyện tại căn nhà nhỏ của thầy, nó có bầu không khí tĩnh lặng giống như căn phòng của tu sĩ và mơ màng nhìn vào lửa cháy trong lò sưởi, vì đó là mùa thu, cho tới khuya. Ông thiếu tá thỉnh thoảng đi tới lui khi thấy cần phải thổ lộ sầu não trong lòng, thầy Moreward ngồi trong ghế bành thẳng lưng, đầu ngón tay chạm vào nhau, trông như là hiện thân của lòng bình thản và thương yêu, mà ngài thường khi có vẻ đó. Lắm lúc tôi thấy ông thiếu tá giống như đứa trẻ lên sáu tuy rằng ngoài đời ông già hơn thầy Moreward, và thầy là người sáu mươi tuổi, chăm chú nghe với sự chiều chuộng thương yêu nỗi u sầu trẻ con. 

Và tôi phải thú thật là sau khi nghe một trong những buổi thổ lộ tâm tình của ông thiếu tá, tôi không khỏi mỉm cười. Sau vài tháng làm quen với người có thái độ an nhiên, quan niệm của ông bắt đầu làm tôi thấy rằng có gì đó thật là ấu trĩ, như đó là cảm xúc mà con người  lẽ ra phải vượt qua rồi, là lòng chiếm hữu trẻ con không còn phù hợp với sự tiến hóa của người. Nhưng làm sao thay đổi quan niệm của ông? Đó là chuyện khó, và một ngày kia thầy Moreward bắt đầu việc có thể rủi ro này.

Thiếu tá đã nói hết nỗi lòng. Ông nhắc lại lần thứ một trăm ý định của mình và cuối cùng bảo. 

– Thiệt khó cho hai ông lắng nghe chuyện tôi, nhưng kể hết làm tôi nhẹ người, và tôi cám ơn là có bạn để thổ lộ nỗi niềm. Thôi, tôi xem như là không còn hy vọng gì, nói hoài cũng không đi tới đâu. Hai ông có gì đề nghị với tôi không? 

– Ông biết rõ là hai tôi rất thông cảm với ông, thầy Moreward bảo, nhưng không phải chỉ có vậy, và thông cảm chỉ vô ích nếu nó không mang lại giúp đỡ. Vậy để xem chúng tôi có thể hỗ trợ chuyện gì cho ông. 

– Nhưng bằng cách nào? thiếu tá hỏi. 

– Có bao giờ ông nghĩ rằng quan điểm là một cách ngừa cho đa số rối rắm không?

– Chưa, tôi chưa hề nghĩ vậy, thiếu tá đáp. 

– Vậy mà đúng, và việc mà chúng tôi muốn làm là thay đổi quan niệm của ông. 

– Làm vậy khó lắm, thiếu tá bảo. 

– Nhưng đáng công, thầy Moreward hăng hái nói. Ông bạn này, ông là người can đảm, ông đánh trận anh hùng và có can đảm về mặt thể chất như quân đội đòi hỏi, và tôi nghĩ cũng sẽ anh hùng trong chuyện nhà khi cần phải có can đảm về mặt đạo đức. 

– Tôi chưa theo kịp ý thầy, thiếu tá kêu. 

– Vậy ta đi chậm một chút. Ông có khi nào tự hỏi là vợ ông có còn thương yêu ông không? 

– Tự hỏi thì có lợi gì - làm sao bà còn thương tôi khi ra đi và thương người đàn ông khác? 

– Trả lời như vậy nghĩa là, thầy Moreward nói thật nhẹ nhàng, thí dụ nếu ông Broadbent đây mà yêu một cô nào đó thì ông ta sẽ mất hết tình cảm đối với tôi? 

– Chà, việc đó khác, thiếu tá trả lời lập tức.

– Tôi nghĩ là ông sẽ đáp như vậy, thầy nói một cách hòa hoãn. Thế thì xin ông thứ lỗi nếu tôi nói có hơi vụng một chút, nhưng ông giống như nhiều người khác bị mê hoặc vì những câu hấp dẫn của ai chưa nghĩ kỹ về sự thật đúng đắn của việc ở đời, sự khác biệt không nhiều như ông nghĩ đâu. 

– Là làm sao? thiếu tá trông có vẻ thắc mắc. 

– Nếu ông và vợ ông đã sống chung hai mươi năm, chắc chắn giữa hai người phải có tình bạn trong đó? 

– Ồ, có chứ. 

– Khi ông mới yêu bà, ông có nhớ là kể cho ai nghe đầu tiên không? 

– Tôi tới gặp Wilkins. 

– Vậy là ông đi tìm bạn thân nhất của mình và thuật hết cho anh ta nghe, thầy Moreward cười. Và thay vì không còn thương yêu anh ta nữa vì đã yêu một cô gái, hẳn ông lại thấy chưa bao giờ quí bạn nhiều như vậy trong đời? 

– Bây giờ thầy nhắc lại tôi mới nhớ, quả đúng vậy. 

– Nhưng giả thử là bạn ông, thầy Moreward nói tiếp, thay vì nghe lời thú thật của ông với lòng thiện cảm và hiểu biết, họ lại tức giận thì làm sao? 

– Làm sao à? Tôi sẽ sạt anh ta một trận, câu trả lời có ngay. 

– Đó chính là điều mà ông đã làm với bạn thân nhất của ông, là bà nhà. Thầy Moreward cười hòa hoãn. Thiếu tá này, ngài nói tiếp gọn gàng, ông đã để lỡ một trong những cơ hội to lớn nhất trong đời hôn nhân của ông, nhưng cũng còn sửa chữa được, chưa trễ lắm đâu. 

Ông thiếu tá có hơi chậm hiểu tỏ ra kinh ngạc, chưa nắm được ý ngài. 

– Ông đã ném đi cơ hội bằng vàng để thông cảm với vợ ông, ngài giải thích êm ái mà thật hùng hồn. 

– Thông cảm ! có mà điên, thiếu tá la lớn. 

Cả ba chúng tôi phá ra cười. 

– Ý đó có vẻ lạ lùng một chút đối với ông, thầy nói vuốt ve, nhưng tin tôi đi, thật tình tôi nghĩ như vậy khi khuyên ông thế. Thông cảm với vợ ông là hành động như người  anh hùng đạo đức mà ta nói khi nẫy. Hơn thế nữa, tôi có thể bảo đảm với ông rằng ông sẽ được đền bù khi làm vậy. 

– Thầy muốn nói, thiếu tá lớn tiếng vì bị khích động, cho phép vợ tôi có nhân tình mà không phản ứng gì? Cám ơn thầy. Để tôi làm trò cười cho thiên hạ ư. Thầy nói coi chuyện đó là đạo đức gì? 

– Có sự khác biệt lớn giữa việc một người cho phép vợ mình có nhân tình, thầy nói nhẹ nhàng, và việc chấp thuận bà có bạn tình vì biết rằng nỗi đam mê của bà mạnh hơn lý trí. Tại sao ông lên án bà vì đã yếu lòng không xa lánh người  bạn tình, mà lại quên không lên án sự yếu đuối của chính ông là không thể tha thứ? 

Thiếu tá không biết biện luận ra sao với câu hỏi không thể trả lời này, nên lúng túng yên lặng. 

– Còn làm trò cười cho thiên hạ mà ông nói đó, thầy Moreward tiếp tục với giọng bình tĩnh, tôi e ngại trong con mắt của người thời nay thường khi sự khác biệt giữa kẻ dại khờ và người anh hùng chỉ mỏng như sợi tóc, nhưng con mắt của sự thực thì người anh hùng thật sự không màng bị xem là kẻ dại khờ. Ông thấy kẻ dại khờ vì lòng kiêu hãnh không bỏ qua việc được coi là anh hùng, nhưng người anh hùng vì không có lòng kiêu hãnh nên không để tâm đến việc bị coi là dại khờ. 

Sự thực này được thầy trưng ra khéo léo làm thiếu tá tiến thoái lưỡng nan không biết trả lời làm sao cho ổn. Thầy mới tế nhị nghĩ ra một cớ dễ nghe để đổi đề tài đột ngột. 

– Ông hút tới cuối điếu xì gà rồi, để tôi lấy cho ông điếu khác. 

Tối ấy sau khi thiếu tá về rồi, thầy Moreward bảo tôi. 

– Phải luôn luôn đưa ra từng liều nhỏ một về sự hữu lý của đức tính, đưa một lần nhiều quá người ta  không thể hấp thu được hết, dầu vậy ta đã lách được một chút khe hở rồi.

Hôm sau tôi được sai tới gặp bà Buckingham. Tôi biết bà khá rõ nên không ngại ngùng gì, bà không phải là người  sẽ bực khi tôi thẳng thắn nói chuyện với bà, bà rất có thể hoan nghênh cơ hội nói ra chuyện làm nặng lòng mình nếu tôi đoán không sai, và chuyện xẩy ra giống như tôi nghĩ. 

Bà tiếp tôi rất thân thiện, tự nhắc đến vấn đề và làm tôi hiểu hơn về trọn câu chuyện. Do vậy tôi rất cám ơn bà vì tôi nóng lòng muốn giúp thầy giải quyết việc phiền muộn này. Như có hàm ý trong câu chuyện tối qua, bà Buckingham vẫn còn lòng quyến luyến chồng, nhưng vào lúc này bà bị cảm tình nồng nàn với người khác chi phối. Tôi nói 'vào lúc này' là theo ý tôi về chuyện, vì bà không hề nói tới thời hạn cho lòng si mê của mình. Chuyện bà nói là tình thương của mình với cả hai người  đàn ông đều sâu đậm và kéo dài, nhưng thuộc hai loại khác hẳn. Bà bảo tôi, tình bạn do hai mươi năm vợ chồng không thể chết đi trong một ngày, và nếu chồng bà chỉ cần cố gắng một chút để hiểu bà trong hoàn cảnh hiện tại của bà thì sự tình có thể sẽ khác đi rất nhiều giữa hai người. Thực tế là ông chỉ làm mình trở thành người không ai có thể sống chung được. 

Tôi cũng có thể đoán được rằng tình yêu của bà đối với ông thuộc loại cao hơn hẳn của ông đối với bà, nó vừa ít phần nhục dục hơn mà cũng ít ích kỷ hơn, thế nên khi có chuyện si mê này xẩy ra thì bà không mất đi hết tình thương đối với ông. Bà chưa quyết định là nên đi theo con đường nào, nhưng bảo tôi rằng thế nào đi nữa, có một điều mà bà sẽ không làm là đường hoàng sống chung với bạn tình trong một nhà. Tính ra thì thiếu tá sống nhiều ở vùng quê hơn nên khi vợ ông có nhà riêng ở thành phố thì không có gì lạ, còn khuyên bà bỏ người đàn ông kia và tìm cách trở về với chồng thì tôi thấy vô ích, nên tôi không đề cập tới. Đáp lại bà cám ơn tôi nhiều là đã giữ miệng không nói.

– Ổng trách móc và đối xử với tôi như vậy cũng phải. Tôi không cưỡng lại được, tôi không hề muốn thương yêu Basil, nhưng câu chuyện lại plus fort que moi, làm sao được. 

Bà nói tiếp rằng không thích bị xem là kẻ thù và ao ước làm bạn với chồng trở lại. 

Chuyện tôi tới gặp bà Buckingham là vậy, và khi thuật lại cho thầy nghe, ngài gọi điện thoại cho thiếu tá và mấy hôm sau mời ông đến ăn tối. Tôi cũng được mời, sau khi nghe ông nghe tôi kể chuyện của bà và như mọi lần được mời nói lên những tình cảm đối chọi trong lòng, thầy Moreward đi thêm bước nữa trong việc giáo dục của thầy về siêu đạo đức. 

– Thiếu tá à, ông thấy không, ngài nói, bà nhà vẫn còn thương yêu ông như tôi tiên đoán, và tình thương của bà hẳn phải thực sâu xa và chân thật nếu bà có thể yêu một người khác mà vẫn yêu ông. Chắc ông còn nhớ tôi có nói tối hôm nọ là ông bị mê hoặc để tin rằng tình thương này giết chết tình thương kia. Điều đó không đúng, tiêu chuẩn của tình yêu chân thật là nó kéo dài luôn cả khi có một đam mê mới. 

Thiếu tá thấy nói vậy hay lắm, nhưng khó mà tin là nó đúng. 

– Ông nghe bà nhà nói đó, thầy bình tĩnh nhấn mạnh. 

– Làm sao tôi biết là bả không nói láo? thiếu tá hỏi cộc lốc. 

– Trước hết, tôi chen vào, biết ai nói láo dễ lắm, và thứ hai, tôi không thấy bà nói láo để làm gì. 

– Có thể ông đúng, thiếu tá nhún vai nghi ngờ.

– Nào, ông bạn của tôi, thầy Moreward nói rất là mềm mỏng, ta hãy thử nhìn chuyện theo cách của người anh hùng và một cách thực tế xem sao. Đầu tiên là nỗi sầu khổ của ông về chuyện muốn nói là chắc chắn ông không muốn mất vợ ông, kế đó ông không muốn có tai tiếng, ông nói với chúng tôi là người đàn ông này đã có nhiều cuộc tình trước đó, và chẳng chóng thì chầy ông ta cũng sẽ bỏ rơi bà. Thêm vào đó ông muốn cứu bà. 

– Tôi nghĩ bả không đáng được vậy, thiếu tá bực dọc lẩm bẩm. 

Thầy mỉm cười làm ngơ câu này và nói tiếp. 

– Trên hết thảy ông muốn có lại tình yêu của bà. Chà, chỉ có một điều để làm là đem bà về, tỏ ra thông cảm với bà, tỏ ra thương yêu, hiểu biết rồi chờ  xem ngã ngũ ra sao.

– Chắc chắn thầy không muốn tôi làm vậy chớ? thiếu tá la lớn. 

– Trong trường hợp của ông, chắc chắn là tôi đề nghị vậy. Thực ra đâu có gì khác để làm trừ phi ông muốn mất vợ ông luôn, mất tình thương của bà, gây ra tai tiếng và phá hoại đời bà, vì ông nói là sẽ không chịu ly dị bà. 

Thiếu tá đăm chiêu nhìn vào ngọn lửa. 

– Tôi chắc ông thật tình thuơng yêu bà nhà? Ngưng một lát thầy Moreward hỏi thế. 

Thiếu tát gật đầu. 

– Có bao giờ ông nghĩ là tình yêu chân thật luôn luôn quan tâm đến hạnh phúc của người mình yêu không? Và nếu hạnh phúc ấy có được trng vòng tay của một người đàn ông khác thì tình yêu chân thật cũng chẳng màng. 

– Tôi không phải ông thánh, thiếu tá trả lời ngắn ngủn. 

– Nhưng sao không làm ông thánh? 

– Khó lắm. 

– Không đâu nếu ông có thể có quan niệm đúng. 

Thiếu tá lặng yên, trí não hoàn toàn không lên tới nổi đỉnh cao đạo đức như vậy, không chừng ông lại thấy như thế là vô đạo đức. Những điều thái quá thường có bề ngoài giống nhau nên có thể ông chỉ thấy khác biệt lờ mờ. 

Thế nên thầy Moreward tạm ngưng vấn đề ở đó và nhắc lại chuyện vào lần sau khi ba chúng tôi gặp lại. Hôm ấy thầy hùng hồn nhưng mềm mỏng khuyên nhủ rồi đi tới đích của mình. 

– Nói cho cùng thì hôn nhân là gì, ngài bắt đầu bằng câu hỏi sau khi có vài lời mào đầu, và nó thành cái gì? Người thường lập gia đình với sự lẫn lộn giữa tình cảm lãng mạn và ham muốn nhục dục, tình cảm dần dần phai nhạt đi, đam mê cũng tàn dần thành ham muốn đôi khi, thay vào hai điều này là hoặc sự tẻ lạnh hoàn toàn, hoặc có tình bạn. Nếu là sự lạnh nhạt thì thật vô lý việc người chồng tức giận khi người vợ thương yêu ai đó, còn nếu là tình bạn thì tức giận cũng vô lý y vậy, bởi tình bạn chân thực sẽ được tăng cường khi người  ta có thể bầy tỏ chuyện riêng tư với nhau. Ông có nói là thấy thân cận nhất với Wilkins khi kể cho anh ta nghe về mối tình của ông. Và điều ấy nghĩa là gì? Là nếu ông thông cảm với bà nhà về tình yêu mới của bà, để bà kể cho ông nghe không sợ hãi, thì về phía mình bà cũng sẽ chưa bao giờ thấy yêu ông như lúc có trao đổi lòng tin tưởng và thông cảm ấy. 

Tôi thấy là lần đầu tiên ông Buckingham bắt đầu thoáng nhìn ra một chút ánh sáng, nhưng ông không nói gì. 

– Và chuyện sẽ là vậy, thầy tiếp tục hùng hồn, vì luôn luôn bà sẽ cảm biết được tính cao thượng của lòng tha thứ mà ông không nói ra, nên chẳng những bà biết ơn mà lại còn cảm phục. Thật vậy, không có gì làm tăng lòng thương mến bằng việc có lòng biết ơn hợp với sự cảm phục. Nên tôi không nghĩ là mình lầm khi tối hôm trước tôi bảo ông đã bỏ lỡ cơ hội tốt nhất trong đời vợ chồng của ông. 

Thiếu tá lấy tay gõ nhịp một cách trầm tư, và yên lặng đồng ý phần nào trong lúc mơ màng nhìn vào khoảng không. 

– Bởi vì, thầy Moreward nói tiếp, khi mà có yêu thương thực sự thì không cơ hội nào tốt đẹp hơn cái cho chúng ta dịp để tha thứ, vì tha thứ là cùng lúc bầy tỏ đặc tính cao thượng, làm cho ta hóa cao đẹp hơn trước mắt đối tượng  của tình yêu của ta. Nhưng có loại tha thứ cần phải nói bằng lời thì loại tha thứ lớn lao nhất là cái hiển nhiên tới mức không cần lời để bầy tỏ, sự hiện diện của nói được rõ rệt thêm khi không có lời. Thực vậy, tình yêu chân thật luôn luôn tha thứ đối tượng của nó, ngay cả trước khi có gì cần phải tha thứ, và mọi bạn bè chân thật càng yêu mến nhau nhiều hơn, người  này vì tha thứ lỗi, người  kia vì được tha thứ lỗi ấy. 

Thiếu tát cũng vẫn im lặng. 

– Bởi vậy, ông bạn à, không phải hiển nhiên đó là chuyện thực tế nhất và anh hùng nhất cho bạn làm sao? 

– Đem bà nhà về, để thời gian trôi qua và cho bà thấy rằng từ trước tới giờ ông không hành động cao thượng như đáng lẽ ông nên làm, và bà về phần mình cũng có điều cần tha thứ; bà sẽ càng cho rằng ông cao thượng hơn (và chắc chắn ông sẽ vậy) khi ông nhận rằng mình cũng có lỗi, kết quả sẽ là cả hai ông bà có thể hưởng được niềm vui là tha thứ lẫn nhau. 

Thiếu tá tỏ ra nghi ngờ. 

– Ông chưa tin hoàn toàn ư? thầy cười và hỏi. Nhưng chắc chắn rằng không tha thứ là một hình thức còn tính trẻ con, trong khi đó không có gì nghi ngờ rằng tha thứ không những là cách xử sự tốt nhất mà cũng là niềm vui chân thực. 

– Thầy đòi hỏi tôi làm nhiều hơn việc chỉ là tha thứ, cuối cùng thiếu tá nói. Đem vợ tôi về mà biết là bà vẫn đi lại thương yêu người  khác, chịu thôi, việc đó quá sức tôi. 

– Nhưng tại sao? thầy hỏi nhẹ nhàng. 

– Tại sao? Tại vì - không phải là bà thuộc về tôi sao? thiếu tá la to. 

Thầy Moreward lại thao thao. 

– Ông bạn à, nguyên do của hầu hết mọi vấn đề là từ óc chiếm hữu, hay cảm nghĩ về 'tôi, của tôi'. Trong trường hợp của ông chuyện này áp dụng không sai chạy, cũng như nó áp dụng cho nhiều trường hợp khác, vì ông nói  trong tim rằng 'Bà ấy là vợ tôi', mà lại quên phân biệt rằng tuy bà là vợ ông, nhưng chính bà gồm linh hồn và thể xác lại hoàn toàn và nhất định không phải là của ông. Bởi linh hồn một ai thì chỉ thuộc về người  đó mà  thôi và không thuộc về ai khác. Vậy thì muốn bà thuộc về ông thì trên thực tế là vô ích như muốn sở hữu mặt trời hay mặt trăng vậy, và rầu rĩ vì không được thì chỉ phí hơi sức, nhọc tâm trí và tình cảm mà thôi. 

'Còn nếu ông không kể tới phần linh hồn mà chỉ lo chiếm đoạt thể xác thôi thì khó khăn cũng không bớt, vì ông không thể nhốt bà trong tù, theo dõi hành động của bà ngày cũng như đêm, bà có tự do với thân xác mình theo ý bà muốn. Nếu ông đòi hỏi nhiều hơn bà có thể làm tròn, hậu quả chỉ là bà dối gạt ông và khiến bà hành động sai lầm thêm. Ngoài ra nói cho cùng, nỗi đau khổ của ông là chi khi ông chịu mất công tìm hiểu nguyên do thực của nó? Thực sự là việc trao đổi một cái hôn ở đây hay kia có đáng gây ra não lòng nhiều như vậy không, và không phải là vật chỉ là thân xác mà thế giới quá coi trọng, lại vô cùng nhỏ nhoi so với tình thương của linh hồn, so với lòng yêu quí là điều quan tâm rất ít đến phần vật chất, hay sao? 

'Chắc chắn người  đời đã mù quáng khi đáp lại một lỗi lầm bằng lỗi lầm khác lớn hơn, và dùng tội này làm cớ để phạm tội kia nặng hơn, và chỉ vì bạn được thế giới khuyến khích quên đi tính cao thượng trong chốc lát, cho phép bạn gạt bỏ vợ vì một chút đam mê mà sớm hay muộn do tính vô thường của mọi đam mê sẽ tự nó tàn dần, mà bạn sẵn sàng chìu theo để do đó mất chuyện lớn chỉ vì chuyện nhỏ? Đó thật không phải là hành động của kẻ anh hùng, và bởi thế, bạn sẽ chọn con đường cao thượng hơn. 

Tới đây thầy Moreward ngưng lại một chút, còn thiếu tá nhìn ngài vừa lạ lùng vừa cảm phục. 

– Cho tôi hỏi một điều, ông nói, thầy có thực hành hết những ý tưởng hay ho đó với vợ của thầy không? 

– Ồ, có chứ, thầy đáp lại với sự khiêm tốn. 

– Thầy muốn nói là chuyện giống vầy đã xẩy ra cho thầy à? thiếu tá nóng nẩy hỏi. 

– Giống gần y vậy, thầy tỏ ý là đúng. 

– Vậy mà thầy không hề kể cho chúng tôi hay. 

– Tôi không hề thấy chuyện riêng của tôi có gì đáng kể cho người  khác nghe. 

Nhưng cả hai chúng tôi cùng bảo là sẽ không chịu bỏ qua, nên chúng tôi ngồi tới khuya nghe một trong những chuyện về chính thầy. Điều đáng tiếc duy nhất là tôi không thể ghi lại y hệt lời thầy vì giống như ngài, nó có thi tứ và ngôn ngữ du dương làm người nghe mê say.

 

CHƯƠNG  11 

CHIẾN  THẮNG  CỦA  LÒNG  CAO THƯỢNG

 

– Để tôi ráng nhớ và xếp đặt những chuyện rời rạc của quá khứ, thầy bắt đầu, chuyện có vẻ lâu quá rồi nên tự nhiên là tôi quên vài chi tiết, ngoài ra một số chi tiết khác không đáng chú ý. Ngài đứng dậy khỏi ghế và đi tới lui trong phòng trầm ngâm. 

– A, phải rồi, ngài nhớ lại, đó là lúc chúng tôi có villa ở gần Florence, khi tôi đã lập gia đình được khoảng mười năm. Chúng ta cần tế nhị ở đây nên hãy gọi bạn tôi là Henshaw, bây giờ thì ông có gia đình đông con nhiều cháu rồi, được người  quí mến vậy để lộ chuyện không nên. Chà, tôi nhớ được thêm chút ít đây. 

Và thầy ngồi xuống chiếc ghế bành lớn cạnh lò sưởi, vào chuyện ngay không rào đón thêm. 

'Ông Henshaw là khách của chúng tôi khoảng một tháng, vì tôi không mời bạn đi xa từ Anh đến nhà chỉ để ở chơi có vài ngày, ngoài ra tôi rất có cảm tình với bạn và muốn có Henshaw ở chơi lâu. Rồi ông cũng tỏ ra là bạn tốt với nhà tôi lúc tôi bắt buộc phải xa nhà tôi nhiều tiếng đồng hồ trong ngày, khiến nhà tôi chịu cảnh vắng vẻ nếu không có bạn, vì nhà tôi không có nhiều bạn và không thích chuyện trò cho lắm với người  chỉ quen biết xã giao. Thế nên việc dễ hiểu là giữa nhà tôi và ông Henshaw nẩy ra tình bạn thân thiết, nhưng điều lạ là tôi không hề nghĩ tình thân ấy hóa sâu đậm như thế nào, và làm sao mà tình bạn cuối cùng biến thành tình yêu. Thực vậy, tới hôm bạn tôi lên đường về nước thì tôi khám phá ra chuyện bí mật mà hai người  giữ kín từ trước tới nay, bởi tôi về nhà sớm hơn dự tính và bất ngờ gặp hai người  vào phút chót, lúc họ nghĩ rằng không có ai chung quanh để họ được tự do có cuộc chia tay thân ái. Tôi thấy cảnh ấy và cũng thấy ngay là sự việc sẽ làm hai người  lo lắng nhiều về sau, bởi mặt nhà tôi trắng bệch vì sợ hãi, còn Henshaw thì lộ vẻ ngượng ngùng, tự trách, thấy có lỗi, hối tiếc, bao nhiêu tình cảm hòa làm một. 

'Không có gì phải làm khác hơn là rút lui, nên tôi cười thật ngọt ngào mà không có ý mỉa mai, nói với cả hai rằng tôi vô cùng ân hận đã bất ngờ gặp hai người, và rồi vội vàng lúng túng quay đi. Cả hai nói gì đó nhưng tôi không nán lại chờ để nghe, mà xuống lầu ra vườn, xong tôi ngồi xuống băng ghế tự trách mình... 

'Tại sao tôi ít nhất không làm một việc gì đó để báo trước là tôi về nhà trái với giờ thường lệ? Ý tưởng bắt gặp hai người  như kẻ trộm trong đêm dằn vặt tôi quá sức, vì nhà tôi tỏ vẻ vô cùng kinh hoảng làm tim tôi nhói đau. Nhưng lẽ tự nhiên là tôi không biết, mà cánh cửa lại hé mở và trong phòng lặng yên. Tôi ngẫm nghĩ, 'Phải chi vợ cho mình hay', và lập tức thấy rằng làm vậy là chuyện rất khó cho nhà tôi. Hiển nhiên nàng nghĩ rằng tôi sẽ giận dữ, nên để tự vệ thì nhà tôi đã dối gạt tôi, nên trọn câu chuyện là lỗi của tôi không ít thì nhiều. Đáng lẽ tôi phải thấy trước chuyện ấy và khi Henshaw trở thành khách thường trực trong nhà, tôi phải biết rằng hai người  sẽ có cảm tình với nhau và nói cho nhà tôi hay là tôi không phiền về việc ấy, vì nói cho cùng thì còn gì tự nhiên hơn? Không phải Henshaw là người dễ mến sao? Còn nhà tôi thì trong trí tôi nàng là người đẹp đẽ nhất. Rõ ràng là tôi đã cho nàng ấn tượng sai là tôi có thể phản ứng ra sao trong một số trường hợp nào đó, nên nhà tôi bắt buôc phải dấu tôi mọi chuyện... 

'Tuy nhiên việc dối gạt này không làm bận trí tôi chút nào, vì tôi biết rõ là nhà tôi không cần phải dối gạt tôi, và tôi sẽ rất sung sướng cho nhà tôi hay vậy. Bởi lòng kiêu hãnh bị tấn công thường làm chúng ta cảm thấy tổn thương là mình bị dối gạt. Thấy mình có tính ghen tức là chuyện thật đáng mắc cỡ dù chúng ta có thể giả vờ là không có tính ấy, 'kẻ dối gạt' biết điều ấy nên tìm cách che dấu. Nhưng đối với tôi thì không phải vậy, vì dù tôi có tánh xấu gì thì có nhưng tôi không ghen tương, thế nên người  khác mà có nghĩ là tôi như thế thì nó không làm tâm tôi xáo trộn. Người ta ít khi thấy tổn thương khi bị xem là việc mà mình không phải là, vì chữa lại sai lầm dễ dàng, nhưng bị xem là điều mà mình thật sự là thì điều ấy mới làm tâm trí tức bực. Có vẻ như trong chuyện này nhà tôi cho rằng tôi là ông chồng cổ hủ, luôn luôn rình rập trong góc nhà với cây súng sẵn sàng bắn ai xâm phạm vào quyền của mình, là người  thường xuyên dòm ngó chuyện riêng tư của vợ mình, là ông chồng đáng ghét, và nếu tôi thực sự giống vậy, nếu tôi thực sự 'nhón chân' đi dọc theo hành lang vì có ý riêng, thì tư tưởng này thật là bực bội. Nhưng tôi không có làm chuyện khó coi đó, chuyện tệ hại nhất trong mọi chuyện, vì tôi yêu quí nhà tôi, và bây giờ việc chính là làm sao cho hai người  đừng lo lắng.

'Bởi tôi thấy rõ là lúc này hai người  hẳn phải hết sức bối rối. Phải làm gì bây giờ? Tôi có nên vào nhà trở lại cho hai người  hay là mọi chuyện tốt đẹp cả không, hay tôi nên gửi cho bạn tôi lá thư, vì không rõ tại sao tôi thấy ngượng nghịu nếu gặp mặt Henshaw, không biết mình sẽ nói gì. Bỗng tôi nhớ ra là chiều nay bạn tôi sẽ đi nên tôi tự hỏi mình có nên lánh mặt chờ tới khi anh đã rời nhà rồi sau đó viết cho anh, khi tôi đã trấn an được nhà tôi. Nhà tôi lại có hể cho bạn tôi biết chuyện trước, để rồi khi thư tôi đến bạn tôi sẽ không kinh ngạc khi đọc điều tôi viết trong thư. Về một mặt tôi mừng là chuyện đã xẩy ra, vì tôi có thể bầy tỏ lòng thông cảm với nhà tôi, nếu nhà tôi chịu để cho tôi ngỏ lời, và làm vậy sẽ khiến mọi việc hóa dễ dàng hơn cho tôi. Nỗi lo lắng luôn luôn sợ rằng tôi khám phá ra chuyện hai người  hẳn đã làm cho hạnh phúc của họ bị giảm bớt phần nào, và tôi không muốn có điều ấy. 

'Nghĩ tới đó thì tôi ngưng lại, vì thấy nhà tôi băng qua vườn cỏ đi tới, nét mặt vừa có vẻ quả quyết vừa lo âu và sợ hãi. Tôi đang ngồi dưới một vòm cây ở cuối vườn, nên khi thấy nàng đi tới liền bước ra đón và đưa nhà tôi lại chỗ đang ngồi, tỏ vẻ âu yếm quí chuộng mà chắc nàng không mong sẽ có. Hình như nhà tôi hết sức kinh ngạc nên òa khóc và để cho tôi dỗ dành, tôi cũng nhớ là nàng mấy lần muốn nói gì đó nhưng bởi đang khóc nên tôi không nghe ra. Cuối cùng khi nguôi bớt và nói mạch lạc được thì nhà tôi bảo rằng tuy cố không yêu thương bạn tôi, nhưng đã không cưỡng được nên cuối cùng buông thả và lừa dối tôi, vì sợ rằng sẽ làm tôi đau khổ.  'Mình thấy, nàng bảo, em không chống lại được'. Nhà tôi lập đi lập lại nhiều lần như vậy, và câu trả lời của tôi là, 'Anh không thấy có ai cưỡng lại được cả, và em tự trách mình chỉ vô ích thôi'. Tôi nhớ là nàng tỏ ý nghi ngờ vì đột nhiên hỏi, 'Em không tin vào lòng tử tế này, không biết sao em lại nghĩ là anh sẽ hành hạ em sau này để trừng phạt em thêm'. 

– Anh có hành hạ em chưa? tôi hỏi nhẹ nhàng. 

– Chưa, nhà tôi đáp, nhưng từ trước tới nay em là vợ hiền đối với anh. 

– Vậy thì đó lại càng là lý do anh không nên hành hạ em lúc này, tôi cười đáp, vì biết ơn em. 

– Nhưng sự dối gạt, nàng tỏ ý nghi ngờ, anh không biết là em đã dối anh ra sao ư? 

– Có lẽ đó là chuyện không may, có lẽ em không cần phải làm vậy, tôi nói mà không có ý mỉa mai, nhưng anh đoán em sợ không muốn làm khác đi. 

– Em không tin chút nào, nhà tôi nhắc lại, và vừa ngẫm nghĩ vừa nói, Em tự hỏi anh có thực sự thương em? Có thực là anh không màng, thực sự không màng ư? 

– Không một chút nào hết, tôi hoàn toàn thành thực khi đáp vậy. 

– Thế thì anh không thể thương em, nàng buột miệng. 

– Nếu thương theo nghĩa em nói là hành động có tính toán làm cho đối tượng thương yêu của mình bị đau khổ hết sức và đau khổ một cách ác độc, thì không, anh không thương em kiểu đó, nhưng nếu em nghĩ thương ai là thường xuyên nghĩ tới người  ấy, đặt hạnh phúc của họ lên trên bất cứ điều gì khác, thì có, anh thương em. Nói cho cùng, chuyện rất giản dị, tôi mau mắn thêm, em không thấy là người  mình yêu có thể bị đau khổ, trong khi chỉ một chút hiểu biết có thể tránh được đau khổ ấy sao? Ngoài ra, giả thử anh nổi giận, hay đánh em, hay làm chuyện khác cũng có ý đánh trả lại, không đẹp hay trẻ con, thì chuyện gì xẩy ra, không phải là em sẽ ghét anh sao? Và nếu anh khuyên em bỏ Henshaw, thì anh sẽ giống như ông thầy thuốc khuyên bệnh nhân nghèo nhất của ông đi chơi vòng quanh thế giới, tức một chuyện không sao làm được.

'Rồi nhà tôi rót vào tai tôi một tràng những lời khen ngợi, thương yêu mà tôi xin không nhắc tới, chỉ kể để bạn thấy rằng tỏ ra thông cảm với chuyện tình của vợ bạn (nếu bà nhà có) thì nó sẽ đền bù cho bạn ngàn lần. Tôi nhớ nhà tôi bảo những ông chồng khác hẳn sẽ nói về danh dự của họ bị hoen ố và những chuyện trẻ con khác, đáp lại tôi bảo nàng là danh dự đối với tôi chỉ là cái tên lịch sự của lòng kiêu hãnh, và có những nước mà đàn ông thà nhận viên đạn vào bụng hơn là có lòng kiêu hãnh bị tổn thương. Và tôi cũng nói với nhà tôi là hồi đám cưới, khi nàng hứa thương yêu, quí trọng và vâng lời tôi, thì cũng nên hứa thêm rằng sẽ sống tới trăm tuổi, vì khó mà có ai làm tròn các điều hứa hẹn như vậy. 

'Buổi trò chuyện vui vẻ ấy kéo dài bao lâu tôi không đoán được, vì cả hai chúng tôi hạnh phúc quá nên tôi cho là nó có thể kéo dài cả mấy tiếng nếu không có công chuyện thường ngày trong nhà khiến phải ngưng lại, nhưng nói để bạn hay rằng vào lúc đó, tôi cầu Trời ban ân cho người  mà đa số sẽ bảo đã làm tôi bị thương tổn, vì trên thực tế bạn tôi làm có sự hòa hợp tâm hồn nhiều hơn giữa nhà tôi và tôi, khiến mỗi chúng tôi biết rằng nhờ Henshaw, tình yêu của hai chúng tôi cho nhau đã trải qua thử thách to tát dữ dội và chịu được giông bão lớn lao mà bao nhiêu chuyện khác hợp lại không thể cho kết quả giống vậy. 

Ngài dừng lại một chút rồi tiếp tục bằng một giọng thay đổi. 

'Bạn nghĩ xem kết quả của chuyện là gì và cuối cùng diễn biến ra sao? Bạn có thể đoán là tôi để hai người  gặp nhau theo ý họ muốn, không đặt điều kiện gì và không hỏi câu nào, đối đãi với Henshaw như là bạn và mời ông tới nhà ở chơi bất cứ khi nào ông muốn. Sự việc tiếp tục trong vài tháng theo cách đó cho tới khi chuyện làm ăn khiến bạn tôi sang Ấn Độ và chấm dứt tình yêu với vợ tôi, vì sự xa cách làm cảm tình tự nó nguội lạnh dần. không cần phải nói, tôi an ủi nhà tôi khi việc chia ly khiến nàng buồn rầu, và tuy tôi thực sự cảm thấy buồn cho nhà tôi, trong lòng tôi lại vui vẻ nhiều khi an ủi vợ, cũng như sự an ủi này làm tâm hồn hai chúng tôi gần với nhau hơn bao giờ hết so với trước kia. 

'Chuyện gì xẩy ra sau đó thì không cần phải kể vì trong lòng tôi chỉ có một phản ứng với tâm tính chân thật và cao quí như con người  của nhà tôi, còn về tình cảm sâu đậm của nàng đối với Henshaw thì nó sinh ra do sự thu hút bề ngoài hơn là tình yêu, khi bạn tôi không còn ở đó để khơi dậy tình cảm của nhà tôi như nam châm lôi cuốn, thì nàng bắt đầu lơi sự chú ý tới ông, và nếu xét tới việc thư từ ông gửi cho nhà tôi ngày càng thất thường thì ông cũng quên nàng dần, để rồi trọn vấn đề phai nhạt đi làm như nó chưa hề xẩy ra, nhưng lại làm tình yêu của hai chúng tôi tăng nhiều hơn nhờ chính vào chuyện có thể làm tình chúng tôi tan vỡ. Lý do là khi tôi không làm gì khiến nhà tôi có cớ để tức giận tôi, hay có cớ để thấy là mình bị cầm tù như thế nào đi nữa, thì không có yếu tố nào làm ngăn chặn tình yêu của nhà tôi đối với tôi, mà lại tăng nó lên đến tột mức. Cũng như khi thấy tôi không gây trở ngại gì cho nàng, chẳng những không gây tai tiếng làm nhà tôi thực tâm biết ơn mà tôi cũng không sinh lớn chuyện, nên ai có muốn nói xấu cũng không nói được gì. 

'Vậy thì bạn à, tôi nghĩ chắc bạn sẵn lòng nhìn nhận rằng con đường mà tôi khuyên bạn nên theo là đường dẫn tới thành công ít ra trong trường hợp của tôi, và tôi nghĩ rằng nó cũng phải thành công trong trường hợp bạn. Bởi xin nhớ rằng người  chồng nào luôn luôn hành động một cách chân thực và cao quí nhất đối với vợ mình luôn luôn sẽ thắng, tình nhân chỉ là chuyện không bền, đến rồi đi theo hoàn cảnh thay đổi, nhưng tình bạn chăn gối đích thực dựa trên việc thân thiết lâu dài có thiện cảm và hiểu biết thì vững bền mãi mãi. 

Tới đây thầy Moreward ngưng, còn thiếu tá nhìn thầy lộ vẻ thán phục và kính nể nhiều hơn ông bầy tỏ trước kia, hỏi rằng: 

– Thế thầy khuyên là người  chồng nào cũng nên cho vợ mình có nhân tình khi nào bà muốn à? 

Thầy mỉm cười trả lời. 

– Tôi phải nói là 'Có' và 'Không', vì điều bạn hỏi tùy thuộc hoàn toàn vào cảnh ngộ của từng trường hợp, cũng như tùy vào người  vợ và người  chồng có liên quan, nên không thể nói chung. Kế đó việc bạn cho phép bà nhà có tình nhân là một chuyện, giống như cho bà nhà có nữ trang và y phục đẹp đẽ, mà tha thứ và chấp nhận hành động của bà khi bà đã có cảm tình với người  nào đó, lại là chuyện khác hẳn. Vì nếu bạn bắt buộc bà nhà từ bỏ đối tượng thương yêu, thì hoặc bà rời ông như trong trường hợp của riêng ông, hoặc dối gạt ông, tự bảo vệ đối với cơn giận của ông, và như vậy là ông đòi hỏi một điều của nhân tính mà khó ai làm được. Hơn thế nữa không có gì làm người ta thích một vật như là khi có trở ngại gặp trên đường chiếm vật ấy, cũng như không có gì làm mất cảm tình mau lẹ hơn, vì ông gợi nên sự tức giận trong lòng bà đối với ông. Nó muốn nói khi tìm cách bắt bà nhà phải thương yêu mình, ông chỉ làm mất đi tình thương ấy. 

Tới đây thầy Moreward ngưng lại nữa. thiếu tá nói. 

– Chà, tôi chỉ có thể nói thầy thiệt lạ lùng, mà thầy cũng giúp tôi không biết bao nhiêu. 

Câu chuyện tới đó chấm dứt, và nó kết thúc tốt đẹp vì một tuần sau, chúng tôi nghe là bà Buckingham và chồng lại sống chung như trước rất hạnh phúc. 

Về phần thầy thì sau khi thiếu tá ra về, ngài bảo tôi. 

– Chuyện lạ là người ta phải nói hết hơi để làm người  khác tin vào một trong những điều hiển nhiên nhất trên đời. Giống như thầy phải tự tạo cho mình hào quang vô lý về lòng cao thượng để khuyến dụ được thiếu tá làm theo gương thầy. 

– Tính cao thượng chỉ tương đối thôi ạ, tôi thưa, việc gì đối với mức tiến hóa cao của thầy là hiển nhiên thì đối với thiếu tá lại đầy nét cao cả. 

Khi chào thầy ra về, tôi tự hỏi có phải lòng khiêm tốn khiến cho một người  rất khôn ngoan như thầy đôi lúc xem ra hết sức hồn nhiên hay không?

CHƯƠNG  XII

SỰ  THAY  ĐỔI  LẠ  LÙNG  CỦA  THẦY  MOREWARD

 

Phương pháp giáo dục tâm linh của thầy Moreward hoàn toàn khác với thông lệ chưa hề làm tôi kinh ngạc, cho tới khi tôi quen biết một người và thấy ngài bỏ công nhiều ra sao để làm ngược lại cá tính thanh nhã của mình, hầu mang lại kết quả nơi đệ tử có loại tâm tính nào đó. 

Tôi gặp ở tư gia ngài một đệ tử tuy là người nam mà lại đầy nữ tính, và về sau tôi được biết là có một số đặc tính cao đẹp nhưng bề ngoài trông thật là nhút nhát, rụt rè. Anh lại giỏi về may vá, tự đơm khuy nút cho quần áo của mình và cho luôn cả bạn trai ở cùng nhà trọ, chăm chút ân cần với người khác y như bà cô không chồng thương cháu vậy. Anh tên Toni Bland, nhỏ người, có vẻ khô khan và khoảng ba mươi lăm tuổi, y phục tề chỉnh, nói năng nhỏ nhẹ, chính xác làm cho nét 'bà cô' của anh lại càng rõ. Nhìn anh tỏ lòng ngưỡng mộ thầy Moreward thật tôi không biết nói sao, vì ngài thay đổi tức khắc khi có mặt anh trong phòng. Chỉ cần Toni ló đầu vào là mọi nét tinh thần hiển hiện của ngài, sự hiền dịu và thương yêu lập tức biến mất nhường cho bản tính khác hoàn toàn đối nghịch. Cách nói chuyện trở thành khó nghe, sắc gọn, tiếng cười lớn, bực bội, thô lỗ, câu chuyện của ngài có xen chữ nói tục, mạnh bạo và cung cách của ngài thường khi thật nhã nhặn, trịnh trọng dễ mến biến thành hờ hững rất chán. 

Thấy ngay thân hình mảnh dẻ của Toni Bland rùng mình khi nói chuyện với ngài, làm như thể tính mẫn cảm của nó bị chà đạp lắm bận, nhưng rồi tôi cũng thấy là khi câu chuyện kéo dài thì Toni tìm cách làm cho tính bớt lộ liễu. Anh bắt đầu thấy xấu hổ một chút vì sự nhậy cảm của mình và ráng che đậy nó. Về phần tôi, lần đầu tiên thấy sự thay đổi lạ lùng của thầy thì tự nhiên là tôi sững sờ, nhưng về sau lòng kinh ngạc biến thành kính phục cao độ, và lời giải thích làm tôi hết sức hài lòng.

Tôi gặp Toni Bland là do tới nhà thầy nhiều lần, anh ngồi tề chỉnh trên mép ghế, hai tay xếp lại còn thầy đứng quay lưng vào lò sưởi, hai ngón cái móc vào nách áo khoác ngắn (waistcoat). Ngài đứng ở đấy không nhúc nhích lúc tôi bước vào mà chỉ gật đầu, và lớn tiếng giới thiệu chúng tôi với nhau... 

– Nào Antonia, thầy hỏi, chúng ta đang nói chuyện gì nhỉ? 

– Dạ, về những hình thức khác nhau của Yoga. Toni trả lời với giọng khác hẳn, nhẹ nhàng. 

– Yog, thầy la to một cách vui vẻ, chữ 'a' câm và trọn chữ muốn nói đúng phải đọc là 'yogue', nhưng muốn nói như con cũng được. Miền bắc Ấn đọc là Yog, còn miền nam gọi là Yoga. 

– Có phải đó là phương pháp tập luyện mà con thấy người ta đeo bảng quảng cáo ngoài đường phố không ? Tôi hỏi. 

– Có thể lắm, ngài đáp, người coi chỉ tay chuyên nghiệp, người có thông nhãn (clairvoyant) và những ai tương tự làm hạ giá trị cái khoa học tinh tế nhất trên thế giới khi ghép nó với nghề nghiệp của mình. 

– Nhưng còn người ở Ấn Độ bôi tro lên thân thể và làm đủ trò kỳ lạ thì sao? Toni dè dặt hỏi. 

– Không một nhà Yogi cao cả nào lại trưng thành đạt của mình cho thế giới rõ, thầy đáp. Ngược lại, ai cao cả chừng nào thì họ lại càng tìm cách tỏ ra tầm thường đối với kẻ không biết thuật. Chỉ có ai mới biết chút ít về thuật mới phô trương. Trên thực tế có hai loại giả dối nếu muốn gọi vậy, đó là sự giả dạng của người cao cả làm ra vẻ tầm thường, và sự giả dối của người tầm thường làm ra bộ rằng mình cao cả. Ai muốn thì gọi cả hai là người dối gạt, nhưng một đằng là sự dối gạt của lòng khiêm tốn và đạo đức cao, đằng kia là lòng kiêu hãnh. Vậy thì những nhà Yogi mà con nói tới, Antonia, không phải là thí dụ đáng nói của Yoga, giống như linh mục mặc áo đen nghiêm nghị không phải là thí dụ của đạo Thiên Chúa vậy. 

Càng nghe chuyện tôi càng thấy rằng nếu Toni nói năng rụt rè, nhỏ nhẹ thì thầy Moreward lại không tha và chọc ghẹo anh, tức có lối tiếp đãi khác hẳn cách tôi hay thấy ở ngài; lúc đó tôi không hiểu tại sao tuy lờ mờ cảm nhận rằng phải có lý do để thầy làm vậy. Về sau tôi hiểu là tánh khí của Toni đòi hỏi cách 'chữa trị' rất khác thường. Đáp lại lời chế nhạo của thầy, Toni chỉ tỏ vẻ hơi ngượng ngùng và cười không tỏ ý gì rõ rệt, thái độ ấy làm tôi bực mình chỉ muốn vỗ vai anh chàng thật mạnh, lắc anh, bảo anh hãy tỏ ra có chút nam tính ra vẻ đàn ông con trai coi. Tuy nhiên thầy Moreward lại nói một câu làm tôi đau khổ thấy là tư tưởng mình không lành.

– Thử ngược đãi một ai thì Antonia sẽ cứu giúp người ấy ngay, Broadbent nhớ này, câu nói 'Trông mặt mà bắt hình dong' không phải lúc nào cũng đúng. Con có hiểu không? ngài quay sang Toni và thêm vào, Không, con không hiểu, đó mới là vấn đề. 

Ngài bắt đầu đi quanh phòng, ngón cái vẫn móc vào nách của áo khoác. 

– Phải, thầy lập lại, đó mới chính là vấn đề, cái ý tưởng vớ vẩn bảo rằng nét tâm linh, vẻ nghiêm chỉnh, nhỏ nhẹ phải đi đôi với nhau. Các con không thấy rằng mục tiêu của con người là có tâm thức của Thượng đế, tâm thức vũ trụ, vậy ai lại có thể tin rằng tâm thức Thượng đế giống như tâm thức của linh mục nghiêm trang, hay giống như của một bà cô nhỏ nhẻ chăng? Các con nghe này, gan dạ mới là chuyện đầu tiên cần thiết để dẫn tới tâm thức Thượng đế. 

Toni chớp mắt, cười nhẹ và ngay ngắn xếp hai tay lại. 

– Con không thấy làm sao việc chặn đứng không cho có nhu động của ruột như nhà Yogi làm lại có thể dẫn tới việc hòa hợp với Thượng đế? anh lẩm bẩm trong miệng.

–  Con không thấy à? Được rồi, để thầy giải thích. Thầy Moreward nói một cách hung hăng mà vui vẻ. Ấy là bất cứ ai làm được chuyện đáng kể nào thì đó là một bước tiến đến gần Thượng đế và một bước tiến đến tự do. Bất lực là cái xiềng xích mạnh mẽ nhất. Có ích gì khi ta bảo phải trở nên giống như Thượng đế là đấng sáng tạo vũ trụ từ bản chất của ngài, mà lại không thể làm gì khác hơn là vặn vẹo hai bàn tay với nhau bất lực ! Thánh thần ơi, tư tưởng chi mà quái đản ! Còn điều này nữa, muốn có tâm thức Thượng đế mà thân xác đau ốm là chuyện hết sức khó. Sức khỏe khang kiện không những là điều thiết yếu để đạt tới trạng thái An Lạc cao tột nhất, mà cũng là một đặc tính của Thượng đế. Thử tưởng tượng Trời đau ! Trời rầu rĩ ! Trời khóc lóc ! Thầy cười lớn. 

'Còn đối với các nhà Yogi mà con chê bai vì con không biết chi về họ, nói để con hay rằng khoa Yoga là khoa học cao tột bức trên địa cầu. Không có phép lạ nào mà nhà Yogi không biết làm, nhưng chỉ vì họ không tới London mở show biểu diễn trong rạp hát nên người ta không tin họ, dù rằng công chúng sẵn lòng tin phép lạ của đức Chúa là một nhà Yogi đã làm  hai ngàn năm về trước. Thầy nhìn nhận là một số Yogi cấp thấp ở Ấn Độ làm được chuyện lạ lùng trước đám đông, nhưng ai dùng quyền lực của mình để hoặc thỏa mãn lòng kiêu hãnh hoặc để lấy tiền, thì không tiến xa được. Tính muốn thủ đắc và lòng kiêu hãnh chẳng bao lâu sẽ ngăn chặn đường dẫn tới tâm thức cao hơn. 

Ngài ngồi xuống ghế bành và gác chân lên đầu lò sưởi. 

– Nhưng nói để các con biết nhà Yogi có một sở hữu quí giá, ngài tiếp tục, ấy là những trạng thái tâm thức của họ có được là nhờ phương pháp về sinh lý học, mà không do việc thôi miên hay dùng ma túy. Điều ấy có nghĩa gì? Là không ai có thể giả vờ không biết để bảo rằng đó chỉ là óc tưởng tượng. Muốn tự thôi miên thì người ta phải tưởng tượng là mình thực sự thấy chuyện mà mình đang nghĩ về nó, nhưng yog khác hẳn. Bên trong con người có một số lực tiềm ẩn, khi khơi dậy các lực bằng phương pháp thuần sinh lý học mà nhà Yogi biết, thì người ta biến đổi trọn tâm thức của mình, thấy được chuyện này chuyện kia, nghe được âm thanh lạ, và cảm nhận được việc chung quanh mình mà từ trước tới nay không ý thức. 

– Ai cũng tập được Yog hay sao? tôi hỏi. 

– Nếu tìm được thầy, mà điều ấy không dễ, ngài trả lời. 

– Con đoán như vậy người ta phải qua Ấn Độ? tôi bàn thêm. Ngài cười và đáp. 

– Có thể học được Yog ở bất cứ nước nào nếu tìm được đúng người, khoa này đã có tại Anh từ hơn 300 năm nay và hiện đang có người rất thành thạo về thuật này ở London. 

– Nghe chuyện thú vị quá nhưng con phải đi đây. Toni ngỏ ý và đứng dậy khỏi ghế. 

– Tới giờ phải về à? Thầy hỏi mà không đứng dậy. Thôi đi đi, Antonia, khi nào tới nữa thì cho thầy hay. Ngài bắt tay mà vẫn ngồi y chỗ cạnh lò sưởi. 

Toni chào tôi, nói rằng mong gặp lại tôi nay mai, và tề chỉnh ra về. Khi nghe tiếng cửa trước đóng lại cho biết Toni đã ra khỏi nhà và không còn nghe được tiếng chúng tôi nữa, tôi hỏi thầy. 

– Chuyện vừa rồi có nghĩa gì? 

Thầy Moreward lấy chân đang gác trên lò sưởi xuống và cười một tràng vui vẻ như thói quen. 

– Thầy sẽ cho hay chính xác nó có nghĩa gì, nhưng thầy nghĩ không chừng con đã hiểu. 

Thầy trở lại hoàn toàn là ngài như cũ, giọng nói có âm điệu lúc bình thường, phong cách có chút trịnh trọng dễ mến vốn là một phần của đặc tính đáng yêu của ngài. 

– Con không biết là thầy có chút kịch tính sao? ngài hỏi. 

Tôi thú thật là chưa hề nghĩ vậy bao giờ. 

– Có vài người ta cần đối xử theo một cách thức riêng, ngài tiếp lời, để một mặt làm đảo ngược quan niệm sai lầm của họ, và mặt kia thì làm họ vững mạnh hơn. Như con thấy, Toni nhỏ nhẹ rụt rè như con gái quá, anh chàng thiếu uy lực và đó là trở ngại trên con đường phát triển của anh. Một trở ngại to tát hơn nữa là niềm tin rằng sự chững chạc, đúng lễ tột bực là đòi hỏi trước tiên cho đường tinh thần. Thế nên cách duy nhất để chống lại quan niệm ấy là làm cho anh dầy dạn hơn, có nam tính hơn, bằng cách chọc phá tính dễ cảm của Toni tới mức chúng tan biến đi. Con có nghe việc chữa trị bằng cách làm cho con người cương cường lên? vậy thì có vài người cần sự cứng cáp trong việc chữa trị tâm thần, không có cách nào khác hơn.

Không thể chối cãi được là lời này khôn ngoan, dầu vậy tôi tự hỏi trong trường hợp này nó sinh ra điều gì tốt đẹp không. Tôi thấy Toni có vẻ như là người 'hết thuốc chữa', và tôi không kềm được nên nói ý này cho thầy nghe. 

– Có một điều về thầy mà đôi khi con thấy lạ, tôi bảo. Con không muốn tỏ ra thiếu khoan dung, nhưng thầy chịu bỏ công lao rất nhiều để lo cho người mà con thấy là hết sức khờ dại. 

– Con nghĩ sai cho Toni rồi, thầy đáp. Với người lạ thì hắn nhút nhát đến tội, nhưng nói cho sát thì bản tính hắn không khờ dại đâu. Hắn sẽ nói rất nhiều khi không có ai lạ trong phòng, khi con biết hắn kỹ rồi thì con sẽ không nhận xét hời hợt như thế nữa. Hắn có tâm hồn đầy nữ tính quá và phải sửa chữa lắm điều, nhưng nếu con có bốn hay năm kiếp trước đều là phái nữ như hắn thì con cũng sẽ y hệt như Toni thôi. Hắn có vận mạng khó khăn. 

– Nhưng còn nhiều người khác, tôi thưa với thầy, cũng bình thường như Toni mà lại 'hết thuốc chữa' hơn anh chàng, và con thấy thầy bỏ công lao không biết là dường nào đối với họ. 

– Con chưa quen nhìn sự việc theo con mắt vĩnh cửu, ngài cười và đáp. Thầy đã biết mỗi một người trong nhóm từ xa xưa, và mỗi người đều có làm ơn cho thầy. Chúng ta luôn biết ơn vì vậy thầy chỉ mong trả ơn cho họ. Thí dụ con có nghĩ là Toni chịu được cung cách của thầy không nếu không có mối dây liên kết trước đây thu hút chúng ta lại với nhau? Hết lần này rồi lần khác Toni đến đây bảo rằng muốn được biết ý kiến sáng suốt của thầy  - hắn nói thế để tỏ lòng kính trọng - về các vấn đề của huyền bí học, và chịu được câu nói lóng, chữ thô tục. Vì mặc dù thầy phát ngôn như vậy nhưng hắn tin nơi thầy, và trong tiềm thức biết là hắn và thầy đã từng gặp nhau trước kia. 

'Thế thì con thấy là ký ức rộng làm thay đổi cách nhìn về sự vật, và chuyện có vẻ vô lý trở thành đầy ý nghĩa. Với ai biết rõ hắn thì thấy là Toni có những đặc tính tâm linh thanh cao, nhưng cho dù hắn không được vậy, thầy cũng vẫn cố gắng để đẩy mạnh phần tinh thần của hắn, như là cách trả ơn cho điều đã làm khi xưa, và nếu hắn chưa sẵn sàng bước vào đường Đạo trong kiếp này, thầy sẽ gắng công vào kiếp tới của hắn, vì tình thương luôn mang chúng ta lại với nhau kiếp này rồi kiếp kia.

...

Tôi không gặp lại Toni trong một lúc lâu (tác giả sẽ trở lại Toni trong quyển ba của bộ sách), nhưng lần nói chuyện độc nhất ấy với hắn gián tiếp làm cho tôi thấy nhiều nét vinh diệu của bậc có khả năng nhìn sự việc suốt hàng ngàn năm, thay vì chỉ thấy trong giới hạn của đời người là 60, 70 năm. Lời nói đáng chú ý của thầy cho thấy là có vẻ như không cảm xúc hay hành động nhỏ bé thế mấy bị phí phạm vô nghĩa. Nhờ chỉ dẫn và thí dụ của ngài, cuộc sống trở nên rộng lớn vô tận, mọi ý kiêu hãnh tan mất biệt, và nhìn theo triết lý của ngài ngay cả việc dùng chữ thô tục tuy kỳ lạ nhưng lại có hương vị thanh cao. 

 

CHƯƠNG  XIV

CUỘC  TÁI  NGỘ  CỦA  GLADYS  VÀ  GORDON

 

Tôi có một cô em gái tính tình rất khác anh chị trong nhà, khiến tôi thấy thuyết di truyền chỉ đúng một phần mà không đúng trọn vẹn. Thực vậy có lần nói chuyện về đề tài này với thầy Moreward, ngài giải thích rằng di truyền chỉ là hệ quả mà không phải là duyên cớ. Lấy thí dụ một ai thích uống rượu thì trong kiếp tới, họ sẽ bị thu hút vào gia đình mà họ có thể thỏa mãn thèm muốn ấy. Thuyết di truyền khi đó nói rằng họ nghiện rượu vì cha mẹ nghiện, nói khác đi họ nhận lãnh một thân xác có khuynh hướng thích rượu chè. Nói như vậy quả là đúng nhưng nó bỏ qua lý do tại sao họ thừa hưởng thân xác đó, nó xem thuyết di truyền là nguyên cớ đầu tiên thay vì chỉ là hệ quả mà căn do nằm sâu xa hơn nữa. 

Hay lấy một ví dụ khác, có người là nhạc sĩ trong kiếp qua và trong kiếp sắp tới, họ cần có một thân xác và não bộ nhậy cảm, vì thế họ cần tái sinh vào gia đình mà chẳng hạn như bà mẹ có khiếu về nhạc, để họ thừa hưởng được loại thân xác đặc biệt của bà, hay của bà ngoại (của ai thì không quan hệ cho lắm). Đa số người sẽ lập tức nói 'Anh có khiếu âm nhạc nhờ mẹ', trong khi thực ra lời ấy chỉ đúng một phần. Anh đã có khiếu về âm nhạc từ lâu trước khi gặp mẹ, mẹ anh chỉ là phương tiện cho anh biểu lộ khả năng về nhạc ở cõi trần trong kiếp hiện tại mà không cống hiến gì khác hơn. Lẽ tự nhiên thuyết di truyền thỏa mãn được đa số người vì họ chưa có khả năng nhớ lại những kiếp trước, nhưng đối với ai có thể nhớ lại được thì chuyện rõ ràng là di truyền phải được xem như là hệ quả mà không phải là nguyên nhân, và giữa hai điều có sự khác biệt rất lớn. 

Điều làm tôi ngạc nhiên là tây phuơng biết rất ít về thuyết luân hồi, và người ta chỉ mới đề cập nhiều đến thuyết ấy lúc gần đây, tuy nhiên thầy Moreward giải thích. 

– Con xem, thầy nói, người ta bác bỏ thuyết luân hồi vì họ không thể nhớ lại những kiếp trước, họ xem việc không có hồi ức là chứng cớ đủ cho việc không có kiếp đã qua. Dầu vậy nếu thầy hỏi chính xác là con làm gì vào một ngày rõ rệt nào đó 15 năm về trước thì con không nhớ được, tuy con biết chắc là mình có sống qua ngày ấy. Sự kiện là vào mỗi kiếp linh hồn có thân xác mới với não bộ hoàn toàn mới mẻ, mà não bộ là phần duy nhất nhớ lại. Vậy thì não bộ không thể nhớ được chuyện đã xẩy ra trước khi có nó, mà cũng không thể nhớ được nhiều chuyện xẩy ra sau khi có nó. Thí dụ là nếu hỏi con nghĩ gì cách đây 10 phút thì con sẽ thấy mình quên hoàn toàn. Sao đi nữa, trong mỗi người chúng ta có vài cơ quan mà khi áp dụng phương pháp của khoa huyền bí học, ta có thể khiến chúng linh hoạt và nhớ lại được kiếp trước không cần nhờ vào não bộ. Đó là lý do tại sao và cách thức mà vị đạo đồ nhớ lại những tiền kiếp. 

Tôi ghi lại quan điểm của thầy Moreward một phần vì nó lý thú, phần khác vì nó có liên quan đến chuyện sau. Thầy và tôi được mời đến chơi một nơi vài ngày, em Gladys cùng một thanh niên mà em có cảm tình cũng tới nơi ấy, về chàng trai thì rõ ràng là anh yêu quí Gladys. Tuy nhiên người ta thấy ngay là dù hai người có cảm tình ra sao với nhau, giữa đôi bên có sự lạc điệu rất rõ vì anh bạn Gordon Mellor không dấu được vẻ rầu rĩ mà thầy với đôi mắt tinh tường và trực giác bén nhậy đã mau lẹ nhận ra. Chẳng bao lâu thầy bị lôi cuốn vào chuyện vì em tôi tỏ ý muốn làm quen với thầy, và rồi thẳng thắn bộc lộ tư tưởng của mình khi được thầy khuyến khích. 

Riêng tôi thì tôi biết trục trặc nằm ở chỗ Gladys có lòng kiêu hãnh không đúng, nhưng hễ tôi nói ra thì em bảo tôi là đàn ông không hiểu được đàn bà nghĩ gì, thành ra tôi thấy chẳng đi tới đâu và bỏ cuộc. Hơn nữa, anh em trong nhà nói không 'linh' nên trục trặc đã xẩy ra cả mấy tháng rồi mà không có giải quyết thỏa đáng. Ngay từ ngày đầu chúng tôi đến nơi, thầy Moreward nói chuyện liên quan đến tâm linh theo một cách đặc biệt, khiến cho chẳng mấy chốc em tôi tỏ ý kính phục. Thấy vậy tôi mới thưa ngay với thầy là em tôi đang gặp khó khăn mong thầy giúp đỡ. Dĩ nhiên khi nghe thế ngài ưng thuận ngay, và tôi xếp đặt sao cho cả ba chúng tôi có giờ trò chuyện riêng mà không bị quấy rối. 

Một buổi trưa ba chúng tôi đi dạo trong cánh đồng làng, tôi nói với Gladys. 

– Anh bạn Gordon của em thấy không vui cho lắm. 

Gladys đỏ mặt và tìm cách tránh né một cách  vụng về. 

– Cô Broadbent này, thầy nói một cách hiền từ, anh bạn cô và cô làm tôi rất chú ý. Có lý do làm tôi tin rằng hai người là bạn từ lâu, lâu lắm, từ mấy kiếp trước nếu tôi không lầm.

Em tôi hớn hở và chú ý đến lời thầy ngay, nó đã nghe nhiều chuyện về huyền bí học và tin nên hăng hái nhập cuộc. 

– Con không biết là thầy thấy được điều ấy, nhưng làm sao thầy nhìn ra? 

– Dễ lắm, ngài cười và đáp, nếu cô nhìn hai người theo một cách thông thường thì có thể nhận xét tổng quát là họ hòa hợp với nhau hay không, chẳng hạn giữa mẹ và con có đường nét thân hình giống nhau. Còn về mối liên hệ tinh tế hơn thì phải nhìn vào thể trí của người, bằng cách ấy ta có thể nói hai người có sự thu hút tâm linh lẫn nhau hay không.

– Vậy thầy cho là Gordon và con có điều đó? 

– Tôi tin chắc vậy. Thầy đáp. 

– Ha, tôi reo lên một cách đắc thắng, nay đã biết rồi thì có lẽ em nên đối đãi anh ta khá hơn một chút. 

– Em chưa hề xử tệ với anh ta, em tôi đáp lại một cách nóng nẩy. 

– Anh thấy nó tệ, tôi nói. Anh hay nói với em chuyện đó, bây giờ nếu em kể thầy nghe thì anh chắc thầy cũng đồng ý với anh. 

– Có chuyện gì không ổn thế? thầy Moreward hỏi một cách thân mật. Tôi có thể giúp được gì chăng? 

Gladys nhìn thầy tỏ vẻ biết ơn và nói. 

– Có chuyện trục trặc ạ. 

– Nói thế không đúng, chuyện có thể sửa lại được nhưng chỉ có điều em kiêu ngạo quá. Tôi chêm vào và cười để làm cho lời phê bình nhẹ bớt. 

– Chà, thầy Moreward nói an ủi, anh trai nhiều khi không tế nhị chút nào phải không? 

– Trời, anh con ăn nói thô lỗ lắm, em tôi lạnh lùng đáp lại. 

– Sự thực là, tôi giải thích với thầy, Gladys không thích hôn nhân và chưa muốn lập gia đình, nhưng lại yêu anh chàng và muốn anh ta yêu lại nó. Tuy nhiên hai người chưa hứa hôn, thành ra em con nghĩ là đôi bên phải giữ ý tứ hết mức, tới nỗi em không nói là mình yêu anh ta, cho rằng nói như thế không thích hợp. 

Thầy cười với sự khoan dung thấy rõ. 

– Sao, thầy xem con có đúng hay không? em tôi hỏi thầy. 

– Không đúng đâu, thầy nói và cười rất hiền. 

– Đó, không phải anh nói như vậy sao? tôi la lớn đắc thắng. 

– Nhưng mà thầy Haig, em tôi biện bạch, làm khác hơn không nên, không hợp với xã hội mà con giao tiếp. Tụi con không phải người chỉ chơi qua đường cho vui, không thể biểu lộ như vậy được. 

– Tuy nhiên anh bạn không may của cô thì sao, thầy nhìn em âu yếm như cha con, có phải là khe khắt với anh không? 

– Em hành tội anh ta, tôi phán. 

Nghe thế em tôi yên lặng ngẫm nghĩ. 

– Em con không chia tay với anh bạn, tôi quay sang thầy Moreward nói, mà em cũng không tỏ ý thương mến anh ta chút nào. Con thấy đó là sự đùa cợt rất tệ. 

– Em chưa hề đùa cợt bao giờ, em tôi đáp ngay. 

– Nhưng đó có phải là một hình thức đùa cợt che đậy khéo tới mức làm ta tưởng không phải là đùa cợt? 

Thầy nói một cách nhẹ nhàng. 

– Như vậy nó lại càng đáng chê trách, tôi bồi thêm. 

Em tôi tỏ ý thắc mắc. 

– Em không hiểu, Gladys nói.

– Thế này, thầy giải thích với giọng thật hiền dịu, để biết chắc làn người đàn ông có thương yêu mình, cô làm anh chàng mê say cô, cô biết rằng anh đau khổ nhưng không đáp lại cho anh chuyện gì, như thế không phải là sự đùa cợt rất tinh quái sao? 

Gladys yên lặng một cách ngượng nghịu. 

– Tôi biết, thầy nói tiếp, chữ đùa cợt không rõ ràng cho lắm và có khi tôi cho là nó không phải đùa cợt chút nào. Thí dụ hai người có thể thật tình quí mến nhau và biểu lộ điều ấy, dù họ không có ý thành hôn với nhau. Nói cho sát thì như vậy không phải là đùa cợt, bởi không phải là nó không thành thật. Mặt khác nếu hai người chỉ khêu gợi tình cảm của nhau để làm thỏa mãn lòng kiêu hãnh, mà không phải vì họ thấy thương mến nhau, thì ta có thể gọi đó là đùa cợt. Vì nó khéo léo đòi hỏi một điều và không có ý đáp lại bằng chuyện gì khác. 

– Nhưng chắc chắn đó không phải là trường hợp của con. Em tôi phản đối. 

– Nào, ta thử nhìn sự việc một cách kỹ lưỡng xem sao, ngài đáp. Khi tỏ ra thân mật với anh bạn thì có phải là cô khiến anh tưởng rằng cô quí mến anh ta, đúng không nào? Điều ấy làm anh nuôi hy vọng, nhưng cô lại không hề có ý cho anh biết việc sẽ chẳng đi tới đâu. Kết quả là anh bạn đau khổ, nói khác đi, không phải sự đau khổ của anh làm cô vui sao, khi đòi hỏi anh rất nhiều mà không đáp lại một chút gì cả. 

– Nhưng người chung quanh sẽ đàm tiếu, Gladys mở miệng phân trần. 

– Ý kiến người ngoài, thầy ngắt lời nhẹ nhàng, dựa trên lòng ích kỷ và kiêu căng, mà không phải là lòng xả kỷ và tình thương. 

– Gladys này, tôi nói, không ăn thua đâu, cách xử sự của em là của người đạo đức giả và thích đùa cợt, em thấy vậy sớm chừng nào thì tốt chừng đó. 

– Tỏ ra thành thật với anh bạn thì có phải tốt hơn không, thầy Moreward nói tiếp, bảo với anh rằng cô thương yêu anh nhưng quan niệm của cô về hôn nhân khiến cô không muốn thành hôn? Làm như vậy thì vừa thành thật, thẳng thắn, mà cũng cho anh chọn lựa là không theo đuổi cô nữa hay bằng lòng với cảm tình của cô. 

– Nhưng làm vậy không được đâu, Gladys bác, anh ta sẽ lập tức muốn hôn con. 

– Em giả đạo đức hết chỗ nói, tôi đáp liền, kiêu hãnh dàn trời và lửng lơ không quyết. Này nhé, em làm cho anh bạn lúc hy vọng, lúc thất vọng, để thỏa mãn lòng kiêu hãnh vô lý của em, rồi còn ỡm ờ không chịu thú thật là em thương yêu anh chàng, hay cho anh ta hôn để thấy như được lên tiên. 

Thầy Moreward nhìn tôi giống như rất tán đồng, còn em tôi thì ngó tôi giận dữ. 

– Ta ngồi xuống ngắm cảnh đi, thầy nói. 

Chúng tôi ngồi xuống cỏ và tôi thấy ngài nhìn Gladys một cách trầm ngâm. 

– Cô xem, ngài nói sau vài phút yên lặng, có hai loại đức  tính trong đời, loại thật và loại giả. Đức tính giả tạo là cái dựa trên lòng kiêu căng, cái thật thì dựa trên lòng không ích kỷ. Nhìn bề ngoài không mà thôi thì không dễ phân biệt được giữa hai loại, bởi ai không suy xét thì thấy chúng giống nhau. Gladys này, xin cô tha lỗi là tôi dùng chữ thô lậu nhưng thái độ của cô đối với anh bạn dù là đúng đắn và đáng khen ra sao theo quan điểm người đời, khi xét theo quan điểm tinh thần thì chỉ là lòng ích kỷ. 

'Nhìn vào hào quang của cô, tôi thấy nó co rút và bó lại thay vì lớn và mở to, rồi tôi thấy dấu hiệu cho biết cô đã trải qua y màn kịch này với cùng anh bạn trong nhiều kiếp trước đó, lần nào nó cũng mang lại đau khổ. Tuy nhiên thay vì rút kinh nghiệm từ sự đau khổ ấy, không lần nào cô học bài học đó cả nên trong đời hiện tại cô gặp cũng y cảnh cũ. Lý do là tình thương là mối dây liên kết chúng ta lại gần nhau kiếp này sang kiếp nọ, nếu tình thương tỏ ra ích kỷ và cao thượng thì ta có hạnh phúc, bằng khác đi thì mối liên hệ có nét đau buồn thay vì vui tươi. Đó là trường hợp của cô, chuyện tỏ ra không vui vì thái độ mà cô không muốn thay đổi. 

'Tôi e ngại là việc gì đã xẩy ra trước đây nay phải diễn ra trở lại, vì trong những kiếp qua lần nào anh bạn cũng chán nản buông xuôi mọi chuyện và bỏ cô mà đi, khi thương yêu cô anh mong đợi thấy tính không ích kỷ cùng sự rộng mở, nhưng cuối cùng anh bị vỡ mộng.

Ngài nói thật êm ái, dịu dàng. Đó là cách nói của thầy bất cứ khi nào thảo luận về đề tài tâm linh, nhưng tôi không đủ khả năng để diễn tả lại câu văn của ngài. 

– Cô thấy không, thầy nói tiếp một cách hăng say mà cũng đồng thời dịu ngọt, về vấn đề này cô phản ứng theo qui tắc khe khắt của người đời, mà không hề thắc mắc là nó đúng hay sai, dựa trên tích ích kỷ hay lòng cao thượng. Trong trường hợp này cũng như nhiều việc khác, cô cho một nguyên tắc là đúng vì người ta nói vậy, mà quên suy gẫm là tự nó có đúng hay không. Quan niệm, qui ước của người đời đặt trên luật và không du di khi có ngoại lệ, hay kể tới hoàn cảnh riêng của từng trường hợp. 

'Giống như một chuyện có khi đúng mà có khi sai hoàn toàn trong trường hợp khác, thì việc theo sát qui ước của người đời có khi hết sức đáng trách theo quan điểm thiêng liêng. Hơn thế nữa, thuận theo nguyên tắc mà trong tâm ta biết là sai, thì không phải là đức tính mà chỉ là lòng kiêu căng và hèn nhát trá hình, vì vậy không đáng xem là tình yêu chân thật, trong trắng, vô ngã. Và nếu sự thuận tình ấy không những do lòng kiêu căng sinh ra, mà đồng thời làm cho người vô tội có tình ý ngay thẳng, đáng trọng, bị đau khổ thì nó lại càng đáng bỏ đi, vì tình yêu nào không kể tới sự an vui của đối tượng thì không phải là sự thương yêu chi hết, mà chỉ là tình cảm khác mạo hình là tình yêu mà thôi. 

Thầy ngưng chốc lát, nhìn Gladys với sự khuyên lơn nhẹ nhàng, đặt tay lên cánh tay của em tôi. 

– Bây giờ, ngài nói, nó là sự lựa chọn giống như nhiều chuyện khác, xem điều nào giữa lòng kiêu hãnh và tình yêu là điều đẹp đẽ hơn, và xem nên chọn tính trẻ con, vô thường hay điều trường cửu; chọn ảo mộng hay thực tại lớn lao hơn? Bởi thật sự mà nói lòng kiêu hãnh chỉ là ảo mộng, theo nghĩa ai kiêu căng thì luôn luôn có lòng kiêu hãnh về điều ít khi xứng như vậy, và không nhớ gì đến tình này vào lúc mà nó nên được sử dụng nhất. 

'Cô giống như nhiều người khác hãnh diện che dấu thay vì nhìn nhận, hãnh diện có con tim lạnh lùng thay vì nồng ấm, trong khi thực ra không chuyện nào ở trên xứng đáng để hãnh diện mà ngược lại, tức chúng chỉ là lỗi lầm mà cải trang như là đức tính. Tuy nhiên lỗi lầm vẫn là lỗi lầm cho dù người đời nói sao đi nữa. Tính hà tiện cũng vậy, dù là hà tiện tình yêu hay tiền bạc, và hãnh diện về mấy chuyện này là hãnh diện về chuyện gì yếu đuối, trẻ con thay vì sự sáng suốt và do đó mạnh mẽ. 

Tới đây thầy dừng lại, nhìn em tôi tỏ ý mời gọi dịu dàng. 

– Tôi có hơi giảng đạo một chút vì hạnh phúc của một người đàn ông đang chờ cô quyết định, ngài nói có ý biện bạch, và đó cũng là hạnh phúc của cô, vì tuy tình yêu của cô không tha thiết lắm nhưng lúc này cô yêu anh tới hết mức của cô, cô sẽ đau khổ nếu mất anh chàng mà ấy lại là chuyện tôi sợ sẽ xẩy ra nay mai. Thôi, hôm nay giảng đạo đức bấy nhiêu là đủ, không khéo ta quên ngắm cảnh hoàng hôn rực rỡ trên đồi, tự nó cũng là triết lý đáng xem. 

Tuy nhiên dù lời hùng biện của thầy Moreward - ít ra đối với tôi - có sức thuyết phục thế nào đi nữa, trong trường hợp này giống như đa số trường hợp khác, sự can thiệp của thầy hoặc tỏ ra quá trễ, hoặc lòng kiêu căng của Gladys chiếm ưu thế và em tôi không thể thay đổi thái độ của mình, cho dù trong tâm thấy có lỗi ra sao. Chúng tôi hầu như quên hẳn đi chuyện này cho tới khoảng một tháng sau, thầy Moreward đưa tôi xem lá thư Gladys viết.

 Thầy Haig kính, 

Con rất là đau khổ và tuy thầy đã tìm cách giúp con một lần mà con ngu dốt không nghe theo, con mong là thầy sẽ tha thứ sự khờ dại ấy để giúp con lần nữa. Gordon đã rời bỏ con như thầy nói trước. Anh chỉ nói là không thể kéo dài sự việc lâu hơn và không muốn gặp con nữa. Con có viết cho anh mấy lần nhưng không được hồi âm, nên con e sợ là không còn mấy hy vọng để đi tới kết quả tốt đẹp. Được nói chuyện với thầy sẽ an ủi con rất nhiều, con tin chắc là thầy sẽ tha thứ việc con quấy rầy, nhưng con biết thầy luôn luôn sẵn lòng giúp đỡ ai gặp khó khăn. 

Kính chào thầy,  

Con,

Gladys Broadbent.

–  Lẽ tự nhiên thầy sẽ làm điều gì có thể làm, ngài nói khi tôi đọc xong lá thư, nhưng thầy nghĩ tốt hơn con nên nói chuyện với Gordon xem anh chàng nghĩ sao về trọn chuyện này. 

–  Con thấy thầy giảng giải cho Gladys chỉ phí công, tôi đáp, giống như nước đổ lá khoai, tuy nói vậy không hay mấy. 

–  Giải thích một chút cho người không tiếp thu không hoàn toàn vô ích đâu, ngài cười và nói, vì cho dù em con bị đau khổ vì cô muốn có mọi chuyện  mà không muốn cho ra chút gì, nghĩ rằng lòng kiêu hãnh là đức tính, nhưng cùng lúc bây giờ cô thoáng thấy tại sao mình phải chịu đau khổ, và nhờ vậy học bài học dễ dàng hơn. 

'Nay cô không còn trách móc anh bạn - thay vì tự trách mình - về sự đau khổ của cô. Trong phần còn lại của kiếp này, cô có thể học rằng bản chất của tình thương chân thật là cho ra mà không giữ lại, lúc nào cũng nghĩ tới cái tôi mà không nghĩ tới đối tượng của lòng yêu mến. Thế thì khi đôi bên gặp lại trong kiếp tương lai, mà chắc chắn họ sẽ tái ngộ, hai người sẽ lại yêu nhau và sự hiểu biết nhỏ bé cô có được trong kiếp này sẽ làm Gladys sáng suốt hơn, và sự đau khổ trong kiếp này sẽ được thay bằng hiểu biết và hạnh phúc.'

 

CHƯƠNG  XV 

THÁI  ĐỘ  TỰ  CẦM  TÙ

 

Dần dần tôi có quan niệm xem thầy Moreward Haig như là y sĩ tâm linh, để khi bất cứ người quen nào của tôi thấy như cần trị bệnh tinh thần và chưa tới mức hết thuốc chữa, tôi không ngần ngại xin thầy đi với tôi tới gặp họ, không khác nào đưa y sĩ tới thăm bệnh nhân, chỉ có điều là đương nhiên không trả lệ phí. 

Tôi có quen lâu nay một bà bạn tuổi trung niên gọi là bà Burton, thấy như bà đặc biệt cần thay đổi cái nhìn về cuộc sống, vì bà là một trong những người ta có thể nói là có hết mọi thứ mà lại không vui hưởng bất cứ điều gì. Thực vậy, bà tạo nên vật giống như bức tường bao quanh cá tính của mình, sống trong trạng thái khép kín tâm hồn khiến bà lo rầu nhiều mà không biết tại sao. Vì tôi không đủ khôn khéo để giải quyết thành công trường hợp của bà, nên tôi lại nhờ thầy Moreward ra tay cứu độ như đã làm với thiếu tá Buckingham. Cho dù chuyện bà Burton không có tính phiêu lưu sôi động, nó cho cơ hội để ta biết thêm về triết lý bình an của thầy. 

Tôi còn nhớ lần đầu thầy và tôi đến gặp bà tại nhà riêng ở Belgravia. Đó là một ngày nắng ráo của London tuy có trời mù một chút, khi chúng tôi đến khu Belgrave Square, thầy nhận xét với lời chê trách vui vẻ là chúng tôi đang đi vào nơi có bầu hào quang tệ hại nhất ở London. 

–  Người ta có thể dùng dao cắt được không khí nơi đây, ngài nói, nó đè xuống dầy quá.

Tôi cười lớn vì với tâm trí ít nhậy cảm của mình, tôi không thấy có gì khác biệt giữa nơi này với nơi kia, trừ phi nói đến sự đẹp đẽ hay xấu xí.

Khi đến nơi tôi phải thú nhận rằng bà Burton đãi khách với tiệc trà thịnh soạn, và tôi ăn ngấu nghiến và thấy xấu hổ trong lòng, cũng vì vậy hôm sau có người nói lại rằng bà Burton nhận xét là tôi tham ăn. Trên thực tế, chỉ trích là việc làm duy nhất của bà Burton trong đời, bà nhìn chung quanh qua lỗ cửa nhỏ bé của nhà tù tự xây bao kín, chỉ trích mọi chuyện, mọi người, cho rằng làm vậy là nhìn vào cuộc đời như nó là, do đó thực thế đúng nghĩa. 

Bước đầu tiên của thầy Moreward là làm bà thấy thoải mái, để bà nói chuyện. Tôi biết rõ là ngài chỉ cần nhìn vào hào quang là biết trọn tính chất của bà, nhưng ngài nói với tôi. 'Lúc này dùng cách đó không hợp, phải cho bà nói để tin rằng thầy xem xét cá tính của bà bằng cách thẳng thắn và thực tế mà không bằng cách nào khác.' 

– Vâng, bà nói sau vài lời mào chuyện, tôi không có nhiều bạn. 

– Vậy có hơi đáng tiếc phải không, thầy Moreward tỏ lòng thiện cảm, sống như thế cô đơn thật. 

– Đúng thế, bà trả lời có chút buồn bã, nhưng không có mấy người làm bạn thích hợp được, tôi đã gặp nhiều thất vọng trong đời.

– Chắc bà thấy người ta không đáng tin cậy? thầy hỏi. 

– Ồ, rất là không đáng tin, bà khẳng định, rồi cũng khó mà tìm được ai hiểu mình. 

– Đương nhiên rồi, đúng như bà nói là muốn được người khác hiểu mình thì khó lắm. Thầy nhìn thoáng qua tôi, mắt long lanh như muốn nói, 'Chỉ toàn chuyện tầm phào đây !', nhưng rồi lại thêm vào một cách kính trọng. 

– Tôi nghĩ bà hiểu được người khác không chút khó khăn. 

– Chà, tôi không dám nói chắc như vậy đâu, bà nhìn nhận và hài lòng với lời khen ấy. 

– Tôi thì nghĩ đáng lẽ bà phải có nhiều bạn trai, tôi nói và che dấu sự thiếu thành thật của mình. 

– Không phải bạn đúng nghĩa, bà chữa lại. 

– Tôi đoán người có tâm tính như bà đương nhiên mong chờ nhiều việc nơi bạn mình phải không? Thầy Moreward nói với thiện cảm. 

– Đúng rồi, tôi không mong đợi nhiều nhưng tự nhiên là mong đợi đôi chút, bà Burton đồng ý. 

– Tốt hơn hết là đừng mong đợi chi, thầy nói như mới nghĩ ra điều này. 

– Như thế lạ đấy, làm sao làm được? bà đáp. 

– Chỉ cần có thái độ khoan hòa đối với họ thôi, thầy bảo. 

– Tôi sợ mình không làm được, bà nói theo cách của người vô minh, tôi nghĩ mình chỉ trích nhiều và thực tế quá. 

– Chỉ trích không biết có thực là thực tế không, thầy Moreward ngẫm nghĩ nói, giống như mới khám phá ra tư tưởng ấy. 

– Mơ mộng không được, người ta phải nhìn cuộc đời như nó là. Bà Burton nói. 

– Nhưng tôi không biết có ai thực sự nhìn cuộc đời như nó là hay không, thầy bảo. Nó luôn luôn là câu hỏi ta có cái nhìn ra sao, nhìn bằng kính mầu xanh thì cảnh vật hóa ra có mầu xanh. 

– Thà nhìn theo mầu xanh còn hơn nhìn chuyện không thật.

– Nhưng nhìn thấy mầu xanh là nhìn chuyện không thật, thầy chữa lại.

Bà Burton mỉm cười và không trả lời. 

– Thôi tôi biết rồi, thầy thêm, bà là một trong những người khôn khéo thấy khó mà vui vẻ được.

Bà giơ tay lên phản đối một cách vui vẻ. 

– Tôi không thiếu  hạnh phúc lắm đâu, bà nói giản dị. 

– Nhưng dửng dưng? thầy hỏi. 

– Có lẽ thế. 

Tới đây bà Burton có khách nên sau đó chúng tôi ra về, với lời dặn dò của bà là muốn chúng tôi trở lại nay mai. 

– Thầy e ngại trường hợp của bà khó chữa, thầy Moreward lên tiếng trên đường về. Bà bao quanh trí não mình bằng một lớp vỏ, khiến ngay cả tư tưởng thương yêu nhất cũng không thể thâm nhập, làm cho trọn thể tình cảm và thể trí bị thiếu thốn hết sức. Nguyên do nỗi khó khăn của bà là lòng sợ hãi và kiêu hãnh hợp lại, bà sợ không dám có cảm xúc, sợ ngay cả lời chê bại nhẹ nhất, sợ cuộc sống nói chung, và thầy không thấy có mấy hy vọng cho bà thoát khỏi nhà tù đó trong kiếp này, trừ phi có chuyện hết sức không ngờ xẩy ra. 

– Thí dụ như chuyện gì? tôi hỏi. 

– Chẳng hạn như có một cuộc tình nồng nàn, tha thiết, thầy đáp. 

– Trời đất ! Tôi cười phá ra. 

– Chỉ có việc đó mới giúp được thôi, thầy quả quyết. Hào quang bà là một khối mầu xám cho biết có u sầu, và phải cần một làn sóng tình cảm rất mạnh để quét sạch. Có phải con nói bà góa chồng và khoảng 45 tuổi. Nếu đúng thì bà ở giữa lứa tuổi nguy hiểm và rất nguy hiểm. 

Tôi cười và nói.

– Thực tình con không chắc bà góa chồng, ly dị hay ly thân với chồng, con không rõ. Như vậy nếu thầy đề nghị bà có cuộc tình thì không chừng gây đủ mọi rối rắm cho bà, trong trường hợp bà chỉ mới ly thân. 

Thầy cười nụ cười nhẹ nhàng của ngài. 

– Con này, con thường cho thầy niềm vinh dự là xem thầy như y sĩ tâm linh. Y sĩ kê thuốc, có loại đắng có loại ngọt, có loại là độc chất và có loại vô hại, nhưng mục tiêu của chúng luôn luôn là chữa bệnh. 

– Dạ? tôi hỏi. 

– Thế thì khi chữa trị linh hồn, thầy hăng hái giải thích, người ta có khi buộc phải khuyên điều gì đó nghe nghịch tai đối với thế gian. Thế gian đây giống như trẻ con được thả vào tiệm thuốc bắc, nếm vị thuốc này rồi vị kia mà không hiểu biết, và nói rằng thuốc hay hay dở tùy theo vị ngọt hay vị đắng. Nhưng không phải là thuốc đắng thường chữa được bệnh hơn là thuốc ngọt sao, và không có gì tự nó tốt hay xấu? 

– Xin thầy nói tiếp, tôi thưa. 

– Vậy giả dụ là bà Burton chỉ mới ly thân, ngay cả trong trường hợp đó việc có cuộc tình mà người đời xem là không thích hợp lại là điều duy nhất có thể cứu được tinh thần bà. Câu nói 'Ai muốn cứu mạng sống của mình thì phải mất nó' hàm ý sâu xa hơn người ta tưởng, vì nó nói là 'Ai muốn giữ lấy đức hạnh của mình thì phải mất nó'. 

– Thầy dạy vậy thì ai chưa hiểu biết sẽ cho đó là triết lý nguy hiểm. Tôi đáp. 

– Bella donna là chất độc nguy hiểm chết người, nhưng trong nhiều trường hợp khoa homeopathy thấy nó là thuốc vô giá. Thầy ngưng một lát rồi nói tiếp. Chuyện kể là có chàng câu nệ sách vở tới gặp nhà hiền triết Ấn Độ và muốn biết cách được giải thoát. Nhà hiền triết thấy anh tâm tính yếu ớt mới hỏi, 'Anh có bao giờ nói dối không?' Chàng câu nệ kinh ngạc lắm, hoảng hốt thưa rằng chưa hề làm vậy. Nghe thế nhà hiền triết bảo, 'Hãy về học cách nói dối, nói cho khéo cho hay, đó là bước đầu tiên'. 

'Về phần thầy, thầy muốn nói với bà Burton, 'Hãy học cách thương yêu, yêu say đắm, thiết tha để phát triển bản tính thương yêu của mình, và học cách làm ngơ với miệng thế gian đàm tiếu về hậu quả, để loại trừ tính kiêu căng và làm nẩy nở lòng can đảm đạo đức'. Con có thể nói đó là triết lý lạ lùng theo quan điểm của thế gian, nhưng nếu nói về chữa trị thì nó vô giá.

Tuy thầy Moreward cho trường hợp bà quá nặng vô phương chữa trị, nhưng với lòng kiên nhẫn không mệt mỏi và với tâm lành, ngài chịu tới thăm bà lần nữa và cố công thêm để giúp bà thoát khỏi lớp vỏ bọc. Do vậy khoảng mười ngày sau chúng tôi lại đến bà Burton chơi. Lần này bà đi vắng, tuy người giúp việc cho hay bà sắp về và hai con gái Mabel với Iris đang có nhà. 

Đây là hai cô gái sinh đôi, rất linh hoạt và vui vẻ chào đón khách. Thực ra tôi thân với hai cô hơn là với mẹ của họ. Mabel và Iris thẳng tính, ào ào tranh nhau nói cùng một lúc. 

– Mẹ đi thăm bạn, mẹ ghét mấy chuyện đó nhưng lại thích làm chuyện mình ghét. Phải chi tụi con làm được vậy để khỏi bị nghe giảng từ sáng đến tối là tụi con ích kỷ ra sao. 

Thầy cười lớn và nói êm ái. 

– Không phải lòng không ích kỷ lúc nào cũng đi đôi với việc tử vì đạo, nhưng khó mà làm người ta nhận ra  được việc ấy. 

– Chà, tụi con cũng nghĩ vậy, hoan hô thầy ! Người ta cứ nghĩ là hễ có mặt bí xị, làm việc như thể nó gây đau đớn cho mình lắm lắm, thì ai nấy sẽ cho rằng họ là ông thánh. Mẹ giống vậy, mẹ đang bận rộn với việc rầu rĩ là làm thiện nguyện, như chuẩn bị gây quỹ. 

Nói xong hai cô gái cười phá ra. 

– Hai chị em vui vẻ quá, thầy nói, ai vui vẻ thì tỏ ra sáng suốt nhiều. 

– Phải có người vui, một trong hai cô trả lời và tôi không biết là Mabel hay Iris vì họ giống nhau quá. Mẹ thấy chuyện gì cũng ảm đạm nên tụi con phải vui để bù lại cho mẹ. Mẹ nghĩ chuyện gì cũng sai, tụi con nghĩ chuyện gì cũng đúng, nghĩ vậy sống vui hơn. 

Tới đây thì bà Burton vào nhà và lập tức nét linh hoạt của hai cô chìm hẳn xuống, giống như bong bóng thình lình xì hơi. Mabel và Iris ngồi chù ụ một lát rồi hai chị em len lén chuồn đi. Bà ngồi tiếp chuyện chúng tôi, nói vài câu vô thưởng vô phạt và thầy Moreward tìm cách đưa câu chuyện về đề tài hữu ích hơn. 

– Hai con gái của bà, thầy nói với ý khen ngợi, thật là khéo léo, vui vẻ. Các cô nói chuyện rất có duyên khiến chúng tôi ngồi đợi mà không thấy chán. 

– Tôi ngại là thầy khen chúng nhiều quá, bà đáp. Nói thiệt tôi nghĩ phải chi hai đứa tỏ ra nghiêm trang chút nữa thì tốt hơn. 

– Chờ cho hai cô trưởng thành hơn thì tự nhiên sẽ có, ngài nói, lúc này hai cô đầy sự thương yêu nên sung sướng mà không cần tỏ ra nghiêm trang như bà muốn. Lòng thương yêu thế chỗ cho tánh nghiêm nghị.

–  Thương yêu ? bà Burton tỏ ý thắc mắc. 

– Giống như mọi cặp song sinh khác, ngài giải thích, giữa hai cô có sự kết hợp mạnh mẽ. Chuyện mới nghe có vẻ lạ, nhưng sự việc là tình thương mà hai cô có đối với nhau từ nhiều kiếp qua là lý do khiến họ thành song sinh trong kiếp này. (Ngài nhìn tôi mắt có nét hóm hỉnh mà tôi rất quen thuộc, nó có ý 'Bây giờ bà sẽ kinh ngạc đây'). 

– Nghe lạ chưa, bà Burton bảo, tỏ vẻ không tin và chê trách. 

– Bà thấy lạ sao, thầy hỏi một cách thân thiện, nhưng có thật là chuyện lạ lùng không khi ta thấy rằng tình thương chỉ là nguyên lý thu hút, và trọn vũ trụ kết nối với nhau bằng tình thương? Ấy là tại sao tình thương là điều quan trọng nhất trên đời. 

Bà Burton không muốn theo đuổi ý tưởng mà rõ ràng là theo bà nó kỳ quặc. 

– Tôi sợ là tôi không thấy có mấy thương yêu về hai con gái tôi, bà nói một cách tiếc rẻ. Đôi khi chúng tỏ ra ích kỷ đáng trách, và tôi thường khi phải nhắc chúng như vậy. Hai trẻ chưa học ý thức về bổn phận khiến chúng muốn làm việc thiện. 

Thầy Moreward ráng nín cười. 

– Bà có nghĩ việc thiện là tốt đẹp, ngài hỏi êm ái, nếu người ta làm chỉ vì đó là bổn phận? 

– Tôi không thấy có công đức gì khi người ta làm chuyện mà họ ưa thích, bà trả lời có vẻ trách móc. 

– Ai vui vẻ cho ra thì được ân lành, tôi chen vào có ý trêu chọc. 

– Có nghĩa, thầy giải thích trước khi bà Burton có giờ trả lời, là việc thiện mà làm không có tình thương đi kèm thì chỉ có giá trị ít oi, trong khi có lòng thương yêu người khác tự nó là việc thiện, vì nó giống như thực phẩm cho linh hồn đang thiếu ăn. 

Bà Burton tỏ vẻ như theo bà thế giới này đầy chuyện vô ơn. Tất cả việc thiện mà bà đã làm nay bị xem là không đáng, trong khi bà tin rằng cảm tưởng chán ngán khi làm việc thiện phải được xem là đáng công hơn nữa.

– Thiệt tình hai vị có tư tưởng lạ lùng, bà nói xuôi xị. 

– Bà coi, thầy Moreward giải thích làm hòa, sự việc không giống như mình thấy. Con người không phải chỉ có thân xác không mà thôi, họ còn có thể tình cảm, thể trí và linh hồn nữa. Tất cả những thể này thấu nhập thể xác. Khi tuôn tình thuơng đến với ai là bà thực sự làm phong phú thêm các thể này, còn trong khi làm việc thiện suông mà thôi là bà chỉ giúp đỡ cho phần xác là phần vô thường của con người, vì thân xác rồi sẽ chết đi sau vài năm, trong khi những thể thanh trường cửu hơn rất nhiều.

'Tôi bảo đảm với bà rằng nuôi dưỡng thân xác bị thiếu ăn là chuyện thực tế, nhưng nuôi dưỡng con người vĩnh cửu bên trong là chuyện thực tế hơn, vì đối với một vật chuyện gì cho ra ảnh hưởng lâu dài hơn thì thực tế hơn. Lại nữa, tuy rằng cho tiền là cho là cho một phần tài sản của mình và không phải là không có công đức, nhưng thương yêu là cho một phần của chính cái tôi một người. Nên đó là lý do ai mà thực tâm thương yêu thì không bao giờ thực sự ích kỷ. 

Bà Burton không biết nói gì để thêm, nên nhìn thầy thắc mắc, yên lặng. 

– Ích kỷ và không ích kỷ là chữ nói về người mà ý nghĩa không minh bạch cho lắm. Ích kỷ là chỉ nghĩ đến mình, còn thương yêu thì không những nghĩ về người khác hơn là cái tôi, mà cùng lúc còn cho một phần của cái tôi đến với người mà mình thương yêu. Vì vậy chuyện thực tế nhất của mọi việc thiện là cho cả công lao, tiền bạc, và chính chúng ta kết hợp lại. Hơn thế nữa khi làm vậy ta được sung sướng vì thương yêu là cảm xúc dễ chịu nhất trong tất cả mọi cảm xúc. 

Bà Burton cười nụ cười người ta hay có khi không đồng ý mà không muốn tranh luận để phản bác. Nói khác đi bà cười ngượng nghịu vì không tìm ra chữ để bào chữa cho ý kiến của mình. 

– Tôi thấy bà xem là tôi và tư tưởng của tôi có chút điên rồ, thầy nói thật vui vẻ, nhưng tôi đoan chắc với bà rằng nó hết sức đúng thực và đã có từ lâu, xưa hơn cả Thiên Chúa giáo. Nói thật với bà, ngài tiếp lời một cách gọn ghẽ, câu chuyện hôm trước khiến tôi nghĩ là bà không được vui vẻ trong lòng. Còn tôi thì rất vui vẻ, và chuyện đầu tiên mà một người thực sự hạnh phúc muốn, là người khác cũng sung sướng như thế, mong ước đó dễ hiểu và tự nhiên, vì nó giống như ai được y sĩ chữa lành thì giới thiệu y sĩ ấy cho người bị đau ốm vậy. 

Bà Burton cười nhẹ và nói. 

– Thầy tốt bụng quá. Nhưng hậu ý và cung cách của ngài xem ra thật ân cần, thành thật nên bà thật tâm thấy có chút biết ơn và lộ ra như thế. 

– Vậy thầy sẽ kê toa ra sao? bà hỏi. 

– Hít thở nhiều thêm không khí trong lành, ngài nói một cách giản dị. Chung quanh chúng ta có những cảnh giới tuyệt vời đầy sự an lạc mà ai biết mở tâm hồn sẽ cảm nhận được, và ai không mở tâm thì không biết đến chúng. 

Ngài ngưng một chút rồi nói trầm ngâm. 

– Tâm hồn đóng kín thì sẽ cảm thấy không có hạnh phúc vì các nỗi đau khổ của con người sẽ tụ lại trong một chỗ nhỏ, nhưng khi ra chỗ khoảng khoát bao la vô tận thì tất cả nỗi khổ sẽ xa nhau tới bực nào. Nó giống như đi từ khu ổ chuột của thành phố ra đại dương và bầu trời bát ngát; khi ra tới nới ấy tâm hồn có sự dửng dưng thiêng liêng, tất cả lời chỉ trích, tất cả việc gì bị xem là sai, quấy, rơi rụng hết vì cảm xúc hóa ra chật hẹp và trẻ con, ta thấy chuyện không còn đáng chỉ trích. 

'Bà bạn này, ngài nói thêm, vấn đề của bà xem chuyện cũng sai (ngay cả sự tươi vui của hai con gái). Bà đảo ngược lại lối suy nghĩ đi, xem chuyện gì cũng đúng rồi sẽ thấy kết quả. Tôi bảo đảm là bà sẽ không hề phải hối tiếc. 

Ngài đứng dậy, bắt tay bà thân mật và tuy bà nói rất ít, tôi cảm nhận là thầy tạo một ấn tượng cho bà và không chừng ngày kia, bà sẽ mệt mỏi với nhà tù tự tạo của mình và thấy rằng thầy có lý. 

 

CHƯƠNG  XVI

CUỘC  CẢI  HÓA  FLOSSY  MACDONALD

Một buổi tối tôi đến thăm và thầy có nhà, nhưng ngài đang có khách là một phụ nữ mà thoạt nhìn ta biết ngay là chị em bạn với Thúy Kiều. Phải thú thật là tôi lấy làm kinh ngạc, nhất là khi tôi nhớ lại cử chỉ ngần ngừ của người giúp việc lúc tôi hỏi là thầy có nhà chăng. Nếu không có câu nói mau mắn của ngài: 

– Đây là cô MacDonald, con ngồi chơi, thầy rất mừng được gặp con, 

làm tôi nhớ lại cách cư xử thường ngày, hẳn tôi đã trố mặt nhìn hai người gây ra ngượng nghịu. 

– Flossy, ngài quay sang cô gài, đây là anh Broadbent mà cô thường nghe tôi nói đến. 

Cô mỉm cười chào tôi có hơi e lệ, rồi quay sang nhìn thầy Moreward với vẻ quí mến rõ rệt. Chúng tôi nói chuyện vãn chừng khoảng mười phút rồi Flossy đứng dậy ra về, thầy đưa cô ra tận cửa trước và hai người đứng lại trò chuyện nhỏ giọng một lát. Khi trở vào ngài nhìn tôi với nụ cười hóm hỉnh và nói. 

– Trông mặt mà bắt hình dong có khi không đúng đâu. Flossy là một bài học về tâm lý thú vị vô cùng mà thầy không đổi với bất cứ điều gì khác. 

– Điều thấy ngay là cô rất quí mến thầy, tôi nói dè dặt. 

– Chà, đúng đó, ngài đáp với vẻ khiêm tốn, có lẽ cô cho thầy hân hạnh đó, mà nói cho cùng, tình thương là yếu tố hữu dụng khi cần hướng dẫn ai trong việc phát triển tâm linh. 

Tôi không hiểu ý ngài cho lắm nên thầy giải thích. 

– Khi một thiếu nữ thương yêu chàng trai thì cô khiến chàng được lợi rất nhiều, và nếu anh có ảnh hưởng tốt đẹp với cô thì anh nâng cao cô dễ dàng hơn nữa. Con nên biết, được một phụ nữ quí mến là có được cơ hội bằng vàng để làm việc thiện, ngay cả khi ta không thể đáp lại tình thương của họ y như cách họ thương ta. 

– Thế thì có phải thầy đang nỗ lực hướng cô Flossy về đường lương thiện? Tôi hỏi. Thầy có thể khuyến dụ cô bỏ cảnh đời hiện giờ của mình không? 

– Cô sẽ không cần sự khuyến dụ nào khi tới lúc, thầy bảo, cô sẽ tự ý bỏ nó. 

– Chuyện đó lạ, tôi ngẫm nghĩ, người như cô thường không làm vậy. 

– Ấy là vì có hai nguyên do, thầy đáp, mà cái nghiêm trọng hơn là tính thiếu khoan dung của xã hội. Xã hội không cho những phụ nữ như vậy hoàn lương, một khi thiếu nữ đi sai đường thì xã hội xem cô là kẻ đáng bị ruồng rẫy, không cho cô dịp nào để trở lại đường ngay. Thái độ không tha thứ chẳng những trẻ con mà thường khi là phản ứng tệ hại nhất, vì muốn chữa hết một tật xấu ta phải tha thứ nó. Khi xã hội không tha thứ cô gái họ gọi là 'tội lỗi', thì xã hội không cho cô đường thoát nào giữa sự chết đói và đứng vỉa hè kiếm sống. 

– Còn nguyên nhân kia là gì? tôi hỏi. 

– Nó hiếm hơn nhưng hiển nhiên hơn, tức là không muốn giữ trinh bạch. 

– Flossy thì sao? tôi thắc mắc. 

– Cô thuộc loại hai, thầy nói và cười khoan dung, dầu vậy cô có tâm hồn đáng quí và cô đầy lòng thương yêu. 

Tôi thấy chuyện hứng thú nên xin thầy kể cho nghe về Flossy, cũng như ngài muốn hoán cải cô ra sao. Hóa ra Flossy đang nuôi dưỡng một bà dì góa chồng và vài em họ nhỏ tuổi. Cô cũng tìm cách gây ảnh hưởng tốt với khách hàng của mình tuy nghe có vẻ lạ tai, như dùng lời mềm mỏng ngọt ngào khuyến dụ họ bớt rượu chè trong vài trường hợp, với người khác thì cô khuyên bớt thô lỗ vũ phu, đại khái thế. Nói gọn là cô biết nghề của mình tương đối xấu xa nên gắng càng làm nhiều điều thiện càng tốt, và theo lời thầy Moreward thì cô đã thành công.

– Flossy, ngài nói sau khi kể lại những điều trên cho tôi, là thí dụ tuyệt hảo cho nguyên tắc hiếm thấy là dùng khuyết điểm của mình để tạo ra đức hạnh. Nếu có thêm người biết được nét tuyệt diệu của nguyên tắc này thì họ sẽ không phí năng lực vô ích để ăn năn hối hận về khuyết điểm mà họ thấy khó loại bỏ. Ngược lại họ sẽ tập nhiều đức tính liên quan đến tật xấu ấy khiến cho cuối cùng tật xấu bị loại mất hẳn. Ấy là tại sao thầy nói Flossy sẽ không cần được khuyến dụ để bỏ nghề không tốt của mình. 

– Thầy là nhà đạo đức thực tế hơn hết mà con được biết, tôi hớn hở nói đầy sự thán phục. 

Ngài mỉm cười. 

– Thế nhưng xã hội sẽ gọi thầy là người vô đạo đức. Con xem, sự trục trặc là tuy người nói đức hạnh tự nó là phần thưởng, nhưng ít người biết cách có đức hạnh hay có được phần thưởng, họ chỉ nghĩ giản dị là giết chết tình cảm là chuyện không hấp dẫn chút nào và ít ai muốn làm vậy, trong khi việc nên làm là chuyển hóa tình cảm. 

'Giết chết tình cảm thì chẳng còn gì sót lại ngoài nỗi chán chường, còn chuyển hóa nó thì con biến nó thành nỗi hoan lạc. Ngay cả tiến trình hủy diệt cũng ít khi mang lại thành công, vì trận chiến thường là với sự thỏa mãn ham muốn thay vì với chính điều ham muốn. Người ta chỉ bỏ được tật rượu chè khi không còn muốn uống rượu, mà không phải chỉ nhịn uống. Một dục vọng thấp chỉ có thể được giải trừ khi thay thế nó bằng ước vọng thanh cao hơn, vì điều cao trên thực tế cho ra hạnh phúc lớn hơn điều thấp. 

'Lấy con làm ví dụ chẳng hạn, con thích ngồi nói chuyện triết lý với thầy ở đây thay vì ghé vũ trường mỗi tối ngồi uống champagne tới nửa đêm. Có thể nói con từ bỏ rượu vì thích triết lý hơn, nhưng giản dị là triết lý lôi cuốn hơn nên việc bỏ rượu vì vậy không gây đau khổ. 

– Nhưng con tưởng cái khó của việc từ bỏ là bởi nó gây đau khổ? tôi xen vào. 

– Chỉ có việc từ bỏ miễn cưỡng mới gây đau khổ, ngài đáp, còn thực lòng từ bỏ thì luôn luôn không có chút đau đớn nào. Và tại sao? Vì sự từ bỏ mà đau lòng chỉ muốn nói là ta từ bỏ hành động mà không từ bỏ lòng ham muốn, trong khi đó từ bỏ mà không đau khổ muốn nói từ bỏ chính lòng ham muốn, vì nó mất hết nét quyến rũ đối với ta. Cũng giống như tình thương thì hấp dẫn hơn là lòng thù ghét, hạnh phúc lôi cuốn hơn sự khổ sở, thì nét tinh thần quyến rũ hơn tật xấu. Tóm tắt thì khi ai đã một lần nếm chuyện tốt lành thực sự, họ sẽ không còn ham thích chuyện xấu xa. 

– Nhưng đó là nói về việc chuyển hóa tình cảm, thầy không thể chuyển hóa việc thèm rượu. Tôi thắc mắc. 

– Thầy không có ý đưa thí dụ đi xa như vậy, ngài cười lớn, việc chuyển hóa chỉ có thể áp dụng cho một số chuyện mà thôi, nhất là cho những tình cảm mà thầy đề cập. Thế giới đã sai lầm khi cho là tình cảm và đam mê thương yêu là chuyện xấu. Như thế không đúng, tình cảm là chuyện tốt lành chỉ vì con có thể chuyển hóa chúng, ai không có tình cảm chút nào thì khó vào cõi trời hơn hết, vì nếu con không cảm xúc điều chi thì con không cảm được sự an lạc. Đối với Flossy chỉ vì cô có tình cảm nên cô đi gần tới sự giác ngộ tinh thần hơn bất cứ ai đức hạnh nhất trong đời mà chưa hề cảm xúc chuyện gì trong cuộc sống. Có ai nói hòn đá lạnh lùng có đức tính gì không? 

– Thầy có thể cho biết là hướng dẫn cô ra sao không ạ? Tôi hỏi.  

– Thầy bắt đầu từ trên cao đi xuống, ngài nói có hơi bí ẩn, mà không phải ngược lại như đa số thường làm. Thầy không nói, 'Hãy bỏ tật xấu rồi tôi sẽ chỉ cho bạn cách sống theo tâm linh'. Thầy ráng cho cô thấy sống theo tinh thần là làm sao để tật xấu của cô tự nó sẽ tan biến. 

Nhưng câu chuyện cải hóa Flossy chỉ được rõ rệt do chính cô kể tôi nghe về sau. Khi quyết định viết sách này tôi đến gặp cô và dưới đây là chuyện cô kể lại vì thầy Moreward đã rời London đi xa. 

Flossy MacDonald tuy xuất thân trong cảnh tầm thường lại có nét thanh cao bẩm sinh, lộ ra trong cách xử sự và lời nói của cô. Cha mẹ cô rất sùng mộ đạo Thiên Chúa, có niềm tin thật hẹp hòi nên lúc cô còn nhỏ, khi ông bà đặt kỷ luật hết sức khe khắt về giáo điều thì cô đâm ra chán ghét tôn giáo vô cùng, xem nó gần như là đồng nghĩa với sự ảm đạm, sầu não.

Flossy là người tình cảm nồng nàn khác hẳn tính khí cha mẹ, nên lúc 18 tuổi cô bị người tình gạt gẫm, anh chẳng những bỏ rơi cô mà còn để Flossy một mình nuôi con không xu dính túi. Cha mẹ cô vẫn thường cho là con có tính xấu vì không hiểu biết chút gì về điều ấy, tống cổ Flossy ra khỏi nhà không ngần ngại. Sau một thời gian chật vật hết sức túng quẫn, giống như nhiều người khác cô đứng vỉa hè bán thân để nuôi mình và con. 

Tuy nhiên Flossy có một bà dì thương cháu, làm hết sức mình để giúp cô và khuyên can cha mẹ cô thay đổi thái độ với con mà không thành công. Bà dì rất nghèo túng mà vẫn đề nghị cô về ở chung, Flossy không muốn lợi dụng nên từ chối mà như thầy Moreward đã kể, về sau cô đền đáp lại thiện ý này ngàn lần hơn. Có vẻ như sau giai đoạn xuống tận đất đen khốn khó, vận may đến với Flossy và trong thời gian ấy cô gặp thầy Moreward vào một buổi chiều hè. 

– Tôi còn nhớ mọi chuyện rất rõ, cô kể tôi nghe, lúc đó tôi đi gần tới Marble Arch và gặp thầy đi tới. Tôi chào và ngài cười đáp lại, nụ cười đẹp vô cùng, thầy bắt đầu hỏi đủ thứ chuyện về tôi và cảnh sống của tôi. Không biết làm sao tôi thấy ngài khác hẳn những ai mà tôi đã gặp, ngài quan tâm đến tôi và đối xử với tôi đầy sự kính trọng như thể tôi là phu nhân quí phái, đó là chuyện rất lạ lùng. Ngài đề nghị vào công viên và chúng tôi ngồi ở đó nhìn ra Park Lane. Ngài nói suốt buổi, kể những chuyện thật lý thú nên tôi quí mến ngay. Chúng tôi chuyện vãn có hơn một tiếng đồng hồ, tôi còn nhớ kỹ, rồi ngài hỏi nhà tôi ở đâu và bảo muốn  đưa tôi về nhà trò chuyện thêm một chút. 

'Tôi thấy lạ vô cùng. Khi đến nhà tôi, thầy giản dị ngồi xuống ghế đối diện và tiếp tục nói, nói hoài, nói mãi, toàn những chuyện thú vị cho đến một giờ khuya thì đứng dậy ra về. 

– Cô có nhiều người tình, thầy nói, điều cô cần là một người bạn. Đàn ông đến với cô là để tìm lạc thú phải không? Tôi đến cũng để tìm vui nhưng là loại khác với của họ. Tôi chỉ có một mình và muốn có bạn dễ thương để trò chuyện, thăm hỏi. Nhưng cô cần sinh sống, và với cô cũng như với nhiều người khác, thì giờ là tiền bạc (ngài đặt một số tiền lên bàn), thế nên một trong những nỗi vui tôi có được trong chuyện này, là tin rằng cô bạn mệt nhọc của tôi được ngơi nghỉ trong đêm. 

Tôi nhìn thầy ngạc nhiên hết sức. 

– Em không lấy được, tôi đáp, thật tình em không thể lấy đâu. 

Nhưng ngài cầm lấy tay tôi, vuốt ve nó như muốn khuyến dụ tôi đổi ý. 

– Tôi rất nhậy cảm về một số điều, ngài nói, và nếu cô không nhận thì cô làm tôi rất khó xử. 

'Nhưng tôi không sao nhận tiền được và bảo ngài thế, thầy tỏ ra vô cùng thất vọng làm tôi nhượng bộ, điều ấy làm ngài vui vẻ hết sức khiến tôi cũng hân hoan theo. Và anh nghĩ coi, ngài mời tôi đến nhà ăn trưa vào hôm sau. Có phải là tuyệt hết sức không? Ngài tốt lành với tôi biết dường nào. Sao ngài lại bỏ đi? Cô hỏi một cách thiết tha, rồi ngài có trở lại không? 

Tôi bảo cô là tôi hy vọng ngài sẽ trở về để làm cô an lòng, rồi tôi xin cô kể thêm. 

– Sau đó tôi gặp ngài nhiều lần, cô tiếp tục, và dĩ nhiên là tôi quí mến ngài, nhưng không biết anh có hiểu được tình cảm của tôi và thầy hay không. Tôi không hề muốn điều gì nơi ngài, đối với tôi như vậy có vẻ là phạm thánh, và tôi biết ngài không hề muốn gì nơi tôi. Ồ, tôi biết mình có tính thương yêu nồng nàn nhưng nó không phải là cảm tình tôi có với thầy. Nếu được cầm tay hay vuốt tóc của ngài là đủ làm tôi rất sung sướng. Được ngồi cạnh, lắng nghe ngài nói chuyện và dạy tôi bao điều quí giá thì như là thiên đàng đối với tôi. Ngài đã đi xa rồi nhưng đã cho tôi điều mà không gì có thể lấy mất được. Lại nữa ngài còn giúp tôi thoát khỏi nghề của mình, làm xã hội coi trọng tôi trở lại.

– Nhưng tôi nghe là thầy không hề kêu cô bỏ nghề phải không? tôi hỏi. 

– Đó mới là điều kỳ diệu, cô đáp lại, ngài chỉ dạy tôi những điều khiến tôi tự ý muốn bỏ nghề. Ồ, tôi không phải là thánh, cô vội vã nói thêm. Tôi không giả dối và bây giờ tôi vẫn sẵn lòng làm nhiều chuyện vì tình thương nhưng chẳng bao giờ tôi làm chúng vì tiền nữa - không bao giờ. Ngài hay nói, 'Tình thương thanh tẩy mọi chuyện bao lâu con không gây khó khăn cho người khác, vì lẽ dĩ nhiên nếu suy nghĩ con sẽ thấy rằng làm vậy muốn nói con không thực tình thương yêu họ', ít nhất đó là điều ngài thường bảo. Nhưng ngài nói rằng sẽ tới ngày cho dù đầy tình thương, người ta cũng không còn đam mê nữa, và ngài kể tôi nghe chuyện đức Jesus với người đàn bà ở Samaria đã có năm đời chồng, hiện đang sống cùng người không phải chồng bà. Ngài nói đức Jesus dạy bà nhiều chuyện tinh thần đẹp đẽ, nhưng Ngài không hề kêu bà rời bỏ người đàn ông đang sống chung, vì Ngài biết bà thương yêu ông và như vậy tự nó là chuyện tốt lành. 

'Kế đó thầy dạy tôi nên tha thứ người đã bỏ rơi tôi vì thầy nói không ngừng ghét bỏ anh ta là thái độ khờ dại, như con nít và làm hại cho chính tôi. Ngài nói dĩ nhiên là người ấy không hề thương yêu tôi thực lòng, vì nếu quả vậy, chắc chắn anh không coi lạc thú của mình là ưu tiên so với tôi. Thầy bảo đó là lý do tại sao tôi nên ráng đừng ghét bỏ anh nữa mà thay vào đó hãy thương hại anh, vì ngày kia anh sẽ phải trả quả cho hành động này. Tội cho anh ta. Nói anh nghe, khi tôi không còn hờn giận anh ta nữa tôi thấy nhẹ lòng hết sức, thấy rất hạnh phúc. Tôi cũng không còn giận ba má hay ai khác nữa, và cảm giác thật tuyệt vời khi mình không còn giận ghét ai. Thấy ghét bỏ người khác là tính con nít sao đâu. A, ngài là người hay biết chừng nào. 

– Nhưng làm sao ngài khiến cô bỏ được nghề? tôi hỏi. 

– Anh không có nghe à, cô nói với vẻ kinh ngạc ngây thơ, ngài không nói gì với anh sao? 

Tôi bảo cô rằng tôi không nghe điều gì cả. 

– Sao, anh không biết là trước khi đi xa ngài xếp đặt cho tôi hưởng mỗi năm một số tiền suốt đời sao? 

– Thầy không hề nói gì với tôi, tôi ngạc nhiên thực tình và đáp. 

– A, ngài luôn luôn là vậy, cô kêu to một cách nhiệt tình có lẫn chút buồn rầu trong đó. Ngài làm việc thiện cho mọi người mà không hề lộ để ai biết, đúng là cung cách của thầy. 

– Cô kể tiếp đi, tôi thúc giục. Tôi muốn nghe hết mọi chuyện để viết sách. Ngài còn dạy cô điều gì khác nữa? 

Cô nghĩ chập lâu, mơ màng nhìn xuống đất. 

– Tôi không biết kể chuyện, cô nói một cách giản dị, nhưng có những lần tôi được hầu chuyện ngài cả ngày, và đó là những giờ phút vui vẻ. Mà không phải lúc nào cũng vui, có ngày tôi hết sức rầu rĩ, nghĩ tới nghề đang làm thường khiến tôi kinh hoảng nên hay hỏi ngài khi qua đời tôi sẽ ra sao. Tưởng tượng cũng đủ dễ sợ rồi. Nhưng ngài an ủi tôi, nói rằng vì tôi làm nhiều chuyện lành nên cuối cùng chuyện xấu không còn đáng kể, ngoài ra thầy nói có những điều còn tệ hại hơn việc tôi đang làm mà nhiều người không coi là xấu. Ngài thường nói ai đánh đĩ tài năng của mình (ngài dùng chữ ấy) để làm giầu thì tệ hơn tôi rất nhiều, vì ngài bảo trí tuệ là vật đáng quí hơn thân xác, mà tài năng còn đáng quí hơn trí tuệ gấp bội, nhưng có hàng ngàn người làm vậy mà xã hội không nói gì. A, tôi thấy an ủi biết bao khi ngài cười và nói, 'Con chớ lo chi, con sẽ thoát khỏi nghề đang làm dễ như con bướm rời khỏi kén.' 

'Anh nghĩ coi ngài nói đúng biết chừng nào, tới một bữa kia tôi thấy thà sống trong căn phòng chật hẹp trên gác thượng, may quần áo suốt buổi còn hơn tiếp tục làm nghề này tuy nó sướng thiệt, toàn đi ăn đi chơi. Vậy là tôi bỏ nghề mà lúc ấy đang gặp vận hên, vì tôi thoáng thấy một cảnh đời khác trong trí có vẻ hạnh phúc hơn, tốt lành hơn, và thiệt là đẹp đẽ hơn. 

– Sau đó cô làm gì? tôi hỏi. 

– Nghĩ vậy nhưng tôi nhớ tới bà dì và mấy đứa em họ nên tôi ráng thêm một lúc để lo cho mọi người. Chuyện có vậy thôi. Flossy ngưng một phút rồi buồn rầu nói thêm. Tôi buồn biết chừng nào ngày thầy cho hay sắp phải rời London đi xa. Anh Broadbent à, tôi rất sợ việc chia tay, tôi không hề nói được lời từ giã với người khác vì thấy đau lòng, nhất là từ giã ngài. Tuy nhiên ngài tìm thế an ủi tôi thiệt hay, nói rằng dù xác thân ngài ở rất xa, thầy vẫn có thể đến và gặp tôi bất cứ khi nào ngài muốn nhưng tôi có thể không thấy được ngài. Anh biết khi ra đi thầy làm gì không? Coi, ngài không chào từ giã để tránh làm tôi đau lòng, mà viết cho tôi một bức thư thiệt hay, gửi tôi một cây thánh giá xinh đẹp bằng vàng để luôn luôn đeo trong người. Lẽ tự nhiên tôi khóc như suối nhưng không nhiều, giống như ngài có tới hôn chào từ giã. Nhưng điều tuyệt vời là hai giờ sau đó, tôi được thư của luật sư cho hay ngài để lại cho tôi một số tiền hằng năm đến trọn đời. 

– Bây giờ ngài có viết thư cho cô không? tôi hỏi. 

– Ồ, có, thỉnh thoảng ngài có viết cho tôi. Anh thấy có tuyệt không, ngài biết hết mọi chuyện tôi làm mà tôi không hề nói cho ngài hay, và trời, có lúc tôi biết ngài có mặt trong phòng. Bất cứ khi nào tôi thấy cần ngài hết sức thì tôi cảm được sự hiện diện của thầy ngay. Cầu Trời phù hộ cho ngài. 

Và đó là chấm dứt câu chuyện cải hóa Flossy với kết thúc thật lạ thật hay. Trên đường về tôi tự hỏi còn có bao nhiêu cô 'Flossy' khác trên đời, và hiểu theo cách tôi chưa từng hiểu trước đây, là tại sao người tội lỗi lại gần nước Trời hơn người giả dối. 

CHƯƠNG  XVII

 

Tôi đi vắng London sáu tuần, theo thói quen của tôi lúc hè là đi thăm bạn hữu, thế nên tôi không gặp thầy Moreward trong một thời gian và cũng không có tin của ngài. Dù vậy bạn có thể đoán ra rằng ngài là người đầu tiên tôi đến nhà thăm khi trở về thành phố. Tuy đến vài lần mà không gặp, cuối cùng thầy có nhà một buổi tối, bận rộn với chồng giấy tờ, văn kiện vừa được mang tới nhà trong một thùng lớn. Lối chào hỏi của ngài mang nét chân tình, thân ái vốn là đặc tính của ngài, nói khác đi thầy ôm lấy tôi. 

– Thầy sẽ không hỏi là con đi chơi xa có vui không, ngài nói. Thầy biết là con được vui vì thầy cảm nhận được những lúc con hạnh phúc tột độ. 

Rồi ngài chỉ vào giấy tờ bề bộn. 

– Con gái thầy vừa qua đời, và đây là những văn kiện của thầy mà con gái giữ khi trước, chúng mới được từ Ý gửi qua. 

Tôi sắp sửa ngỏ lời chia buồn đầy lòng thông cảm nhưng nụ cười của ngài làm tôi im ngay, và khiến câu phân ưu hóa ra như không đáng kể, trẻ con, giống như đứa trẻ hai tuổi cho người lớn viên kẹo ngọt. Nhân vật đứng trước tôi đây vượt lên trên nhu cầu cần sự cảm thông của người khác, vì đối với ngài hiển nhiên sự chết có nghĩa như là đi ngủ mà thôi, nó không làm xáo trộn sự an nhiên vĩnh cửu của ngài. Thế nên tôi không đả động gì nữa đến cái tang của thầy, nói theo chữ người đời dùng trong cảnh ấy, thay vào đó bàn nhiều chuyện khác nhau mà cả tôi và thầy cùng quan tâm. Về phần thầy ngài chăm chú hoàn toàn vào câu chuyện theo thói quen của ngài. 

Chúng tôi chuyện vãn có đến hai giờ, ngài nhìn đồng hồ và đề nghị là nếu tôi không phiền thì ngài muốn tiếp tục soạn giấy tờ, vì có vài vấn đề luật pháp cần làm ngay không để chậm trễ, nhưng ngài thêm.  

– Việc này có tính máy móc một chút vậy con có thể chuyện trò cho vui, và đừng về nhà vội. 

Tôi nào có ý định ra về, được gặp lại thầy Moreward sau nhiều ngày vắng mặt thì giống như tâm hồn được tắm gội để thanh tẩy, nên tôi vui vẻ kéo dài câu chuyện. Dầu vậy sau một lúc thì câu chuyện cũng đến lúc ngưng hay đứt quãng, xen vào đó là nhiều phút im lặng dài. Tôi mơ màng ngắm thầy làm việc cúi người trước bàn đầy giấy tờ, sắp xếp văn kiện do cái chết và sự mất mát của người thân mang lại. Tuy nhiên gương mặt của ngài bình thản không gợn chút ưu tư như nó vẫn vậy từ trước đến giờ, mà khi tôi nghĩ kỹ thì nó cũng không già đi chút nào so với lúc tôi gặp thầy gần đầu hồi mười năm về trước. Khi ấy trông thầy khoảng ba mươi lăm dù là gương mặt trầm ngâm của ngài gợi ý minh triết của người nhiều tuổi hơn. Một bà nói rằng ngài hơn năm mươi lăm tuổi và nay mười năm sau, sáu mươi lăm tuổi, thầy là nhân vật lạ lùng trông chưa đến bốn mươi tuổi. 

Tôi nghĩ thầm nhất định là không đúng, bà đã nghe lời đồn tào lao và tôi cho rằng mình đã giải quyết ổn thỏa thắc mắc, rồi tôi lại nghĩ thêm nếu khi ấy ngài ba mươi lăm thì bây giờ phải là bốn mươi lăm, và tôi thấy đó là chuyện không thể được nếu kể đến diện mạo của ngài là đầy vẻ sáng suốt của người sáu mươi lăm. Cuối cùng tính tới tính lui khiến đầu óc tôi rối mù những con số, và tôi tự hỏi là tại sao trước kia mình không hề giải quyết cho xong thắc mắc bằng cách giản dị là nêu câu hỏi thẳng với ngài. Đột nhiên thầy phá ra cười. 

– Thầy chịu thôi, con biết là chuyện không có lợi gì cho con nếu biết tuổi thầy. 

– Sao ạ? tôi cười ngượng nghịu. Thầy biết con nghĩ gì ư? 

– Nào, ngài đáp lại, nếu con mê mãi với tư tưởng thì thầy làm gì được? nhất là khi sự suy nghĩ của con hướng vào thầy luôn luôn. Chà ! nếu con chú tâm y vậy vào đề tài cao cả hơn thì hẳn con đạt được chuyện rất đáng nói. Mà thôi..., ngài lại cười và tiếp tục công việc của mình. 

– Sao đi nữa, tôi nói, con nghĩ thầy phải khen là con hoàn toàn không có chút tò mò, vì từ hồi nào tới nay con luôn luôn giữ ý không hề hỏi tuổi của thầy. 

– Dĩ nhiên là sự kín đáo đó thật đáng khen, ngài cười và đáp, nhưng con biết là huyền bí gia có một phương pháp nhỏ ngăn người khác hỏi điều khó nói để bảo vệ chính những người này. 

– Nhưng nếu con biết tuổi của thầy thì đã sao, tôi cố nói thêm. 

– Ý chính là ai không có bí mật gì phải giữ thì không cần nói dối, ngài bảo, lời xưa có câu như vậy. Tức là thầy không muốn đặt con vào cảnh phải nói điều không thật nếu có ai hỏi con về tuổi của thầy. Sự thực như con biết, thầy e ngại lời đồn đãi, sự chú ý của người khác. Ngoài ra mấy bà lớn tuổi sẽ không để yên cho thầy dù là bí mật của thầy hoàn toàn vô dụng đối với họ. Chuyện đương nhiên là khi một ai sống theo lẽ trời thì tự động họ kéo dài được nét trẻ trung. 

Tôi đưa tay vuốt tóc mầu xám và ước phải chi được biết được những luật quí giá này cùng cách sống theo chúng, nhưng tôi nói lớn. 

– Dạ, nó giống như con tưởng vì nói cho cùng ai không kiêu hãnh chút nào sẽ không để ý là mình trẻ hay già, lại càng không chăm chút sửa soạn cho mình có vẻ trẻ hơn, giống như quí bà quí cô trang điểm. 

Thầy Moreward chỉ mỉm cười rồi, đột nhiên thầy đẩy một tập bản thảo cho tôi và nói. 

– Đây là một trong vài bài của thầy, viết lúc rất trẻ. Thầy quên mất là con gái của thầy còn giữ nó. 

Mực đã ngả mầu vàng còn giấy cũng bạc mầu với thời gian, xem ra phải hơn 50 năm về trước. 

– Con đọc được chứ ạ? 

Thầy gật đầu. 

– Nhưng rồi con sẽ vất nó vào thùng rác. 

– Ồ, không có đâu. Tôi phản đối. 

Thầy cười. 

– Xem đi, rồi đưa lại cho thầy. 

Tôi đọc thì thấy đó là một trong những bài thi vị nhất gặp được trong sách vở huyền bí học. Ngôn ngữ của bài có nhạc điệu và sự cuốn hút mạnh mẽ, đi thẳng vào tâm hồn người đọc, cũng như câu văn đặt theo một lối riêng, lạ lùng. Nội dung hết sức tân kỳ độc đáo. Có vẻ như người viết phải thông thạo Phạn ngữ, hay ít nhất văn chương Phạn ngữ một cách rộng rãi, vì rải rác trong bài có những chuyện ngụ ngôn đông phương. Bài văn cho tôi ấn tượng rất đỗi mạnh mẽ tới mức khi đọc xong tôi tiếc thầm là người có văn tài như thế lại không sử dụng nó tối đa. Tôi không hiểu làm sao có chuyện ấy được. Đọc hết bài chỉ mất chừng năm phút và ý tưởng của bài khiến tôi thấy lâng lâng thát ra ngoài bay bổng, giống như khi nghe một khúc nhạc. Cảm giác thanh thoát này làm tôi ngồi yên mấy phút không nói chi, tôi chỉ cảm nhận là đi vào một vùng tư tưởng chưa hề biết trước đó. Tôi đột nhiên thấy mình có những tư tưởng tuyệt vời tới nỗi tôi khó mà tự mình nghĩ ra. Lại nữa chúng tràn ào ạt vào tâm trí tôi mà cùng lúc thật rõ ràng, sâu đậm làm tôi kinh ngạc. 

Thầy Moreward cất tiếng phá vỡ sự yên lặng. 

– Nào, ngài nói, bấy nhiêu là đủ rồi. 

Tôi nhìn thầy ngạc nhiên, tâm hồn và thân xác tôi cảm thấy hết sức hân hoan, sinh động. 

– Tuyệt vô cùng ạ, tôi nói to. Nó nâng con vào một cõi tinh thần mới mẻ.

Ngài cười. 

– Không hẳn vậy đâu, ngài nói. 

– Sao không được? tôi hỏi, thầy nói có khi khó hiểu. 

Thầy nhận xét. 

– Con quá khen khả năng viết lách của thầy, ngài mỉm cười, nó không giỏi dang như con nghĩ đâu. 

Nhưng tôi phản đối. 

– Thật đó mà, đọc xong bản văn con có những ý tưởng thật lạ lùng. Bài viết hết sức kỳ diệu. 

Ngài nói một cách giản dị. 

– Nó chỉ là ảo tưởng của con, giả thử con đọc được tư tưởng của thầy thì sao? 

– Không phải đâu, tôi đáp.

– Nếu như thầy hướng tư tưởng về con vào lúc con ở trong tâm trạng dễ tiếp nhận thì sao? ngài hỏi giả dụ. 

Tôi nhìn thầy lạ lùng. 

– Dạ, con không nghĩ ra điều đó. 

Ngài cười nhẹ nhàng. 

– Con thấy không, ngài tiếp tục nói, bản thảo làm con trở nên dễ cảm thụ. 

– Số dách, tôi hào hứng nói, xin thầy tạo ảnh hưởng đó nữa, thỉnh thoảng một lần. Cảm xúc tuyệt không sao tả được. 

– Nhưng làm thế là chìu con quá, thầy cười phản đối. 

– Chìu con ư? 

– Phải, phải có lý do đúng đắn mới làm vậy. 

– Ồ, vậy để mình nghĩ ra lý do xuôi tai. Tôi nói một cách hăng hái. 

Gương mặt  ngài trở nên nghiêm trang. 

– Việc gửi tư tưởng, ngài giải thích, đòi hỏi năng lực mà năng lực chúng ta có không phải vô tận, vì vậy ta không được phung phí nó mà dùng sao cho có kết quả to lớn nhất. Con mới than là sao thầy không viết nhiều hơn. Đúng lắm, nhưng có những cách 'viết' mà không phải dùng giấy bút, tức viết qua người khác, gieo vào óc họ tư tưởng rồi để họ khai triển chi tiết và xếp đặt theo bố cục của họ tự chọn. Lấy thí dụ như bây giờ mà con muốn viết chuyện... 

Tôi bắt đầu hiểu. 

– Thầy muốn nói là sẽ gây ấn tượng cho con, gieo cho con tư tưởng? 

– Chính thế, thỉnh thoảng ta sẽ gửi tư tưởng đến con và con sẽ viết theo cách thức riêng của mình. 

– Nhưng mà thầy có bắt buộc phải hiện diện cạnh con? tôi hỏi. 

Thầy cười kiên nhẫn. 

– Với hiểu biết có được mà con cần phải hỏi điều ấy ư? 

– Dạ, nó ngu thật, tôi nhìn nhận lời trách cứ nhẹ nhàng, nhưng làm sao con khiến mình trở nên cảm thụ? 

– Một phần là dùng năng lực ý chí, ngài đáp, điều này có thể tăng cường mạnh mẽ hơn bằng cách đọc văn có tính chú ngữ như bài con mới đọc khi nẫy. 

Tôi nhìn ngài thắc mắc. 

– Âm thanh của một số chữ kết hợp lại có giá trị huyền bí, ngài giải thích, làm khơi động trạng thái cảm thụ hay thông nhãn (clairvoyant). Có vài chữ cho ra ảnh hưởng hết sức linh thiêng và mạnh mẽ tới nỗi thầy chỉ dám thốt ra với rất ít người trong số hàng triệu người trên quả đất, nhưng đó là chuyện khác. Hãy lấy thí dụ thi ca, con có để ý là tại sao một bài thơ mà con thấy là chứa đựng ý tưởng đẹp đẽ lại không cho ra ảnh hưởng gì và có vẻ như không đạt tới trọn mục tiêu của nó? 

Tôi công nhận là tôi chưa hề hỏi lý do tại sao của chuyện như vậy. 

– Đó là vì chữ dùng trong bài thơ, hay bài nhạc, không có tính cách chú ngữ thành ra không khơi động được tâm hồn người nghe. Dầu thế, phải thêm là cách người đọc thi ca lớn tiếng làm mất đi giá trị huyền bí của nó, ngay cả khi bài thơ dùng chữ có tính huyền bí, bởi đa số người hoặc đọc thi ca như đọc báo, hay đọc như thông tri ai đó qua đời. Sự thực là thi ca phải đọc gần như là xướng kinh, và khi xướng đúng cách thì kết quả  có thể rất đáng kể... Trở lại bài viết mà con vừa đọc thì bài đó được soạn theo thể văn chú ngữ nên sinh ra ảnh hưởng như vậy đối với con. 

– Nhưng, tôi ngắt lời, sao thầy không viết thêm những bài khác? Làm vậy chắc chắn là hay hơn việc dùng con làm trung gian tuy con rất hân hạnh được làm việc ấy. 

Ngài mỉm cười. 

– Chúng ta (các Chân Sư) ít khi viết vì thì giờ hết sức quí báu và chúng ta có nhiều chuyện khác phải làm. Như ta có lần hàm ý, Chúng ta thích làm việc với tư tưởng mà thôi và không chủ tâm việc cầm bút soạn sách. Mục đích của Chúng ta là trợ lực người khác giúp đỡ Nhân loại, và trong vấn đề đặc biệt này Chúng ta chọn cách trợ lực gián tiếp, tức làm việc qua thi sĩ, nhà văn, và kịch tác gia. 

Thầy ngưng một chút rồi nói. 

– Thế thì con đã tỏ ra xứng đáng được sự trợ lực của các Vị đi trước để tới phiên con giúp đỡ Nhân loại. Đã tới lúc cần có một câu chuyện huyền bí mang tính chất đặc biệt, và bởi Chúng ta không quên ơn, hãy giúp Chúng ta và Chúng ta sẽ giúp con. 

– Thầy muốn nói, tôi chữa lại, thầy sẽ giúp con và không chừng giúp luôn nhiều người khác nữa? Nhưng con không thể viết sách cho mọi người đọc và làm họ tin là chính con sáng tác, trong khi thực sự là con chôm hay đúng ra, con nhận ý tưởng của thầy. 

Ngài rời chồng giấy tờ đang soạn, đi lại đứng trước mặt tôi, cúi nhìn với đôi mắt hiền dịu nhiệt thành. Rồi ngài nói. 

– Tác giả nào sáng suốt nhất sẽ gạt hẳn cái tôi của họ ra ngoài chuyện, họ cho ra chỉ để cho ra và không màng chuyện khen chê. Họ ẩn danh, vì ẩn danh là cách thuận tiện nhất cho một loại văn chương triết lý đạo đức, không gây thành kiến cho độc giả. Chẳng hạn con có thấy là nếu vị giám mục Anh giáo của thành phố London viết sách, thì tất cả những ai theo Anh giáo sẽ đọc cuốn ấy mà ai theo Công giáo La mã sẽ không đọc, trong khi đó nếu không ai biết là vị giám mục ấy có liên can đến sách thì có thể là tất cả mọi người sẽ đọc sách ấy. 

– Thầy thực tế quá, tôi hăng hái nói. 

– Con hiểu ý thầy rồi chứ? ngài nói tiếp, nhưng chuyện không phải chỉ có vậy vì tác giả nào cũng có người ưa chuộng và người không thích họ, người sẽ đọc hay tránh không đọc sách của họ. Còn nói về nội dung của sách như ý tưởng, lời biện luận, và những điều  khác thì sao? Ảnh hưởng của chúng luôn luôn bị tên tuổi và tiếng tăm của tác giả chi phối, dù họ có hay không có tên tuổi và tiếng tăm. Người đọc sẽ nghĩ, 'A, tác giả X viết như vậy thì hẳn là nó đúng (hay hẳn là nó sai)'. Có nhận xét là dư luận giống như đàn trừu, nó sẽ đi theo con chó nào sủa lớn nhất. 

Ngài ngồi xuống chiếc ghế đối diện tôi, đặt tay lên thành ghế, chụm các đầu ngón tay vào nhau và trầm ngâm nói. 

– Lòng xả kỷ chân thực phải không có nhuộm chút nào nét kiêu hãnh, và điều này làm được nhiều chừng nào thì kết quả lớn lao chừng ấy vì còn một yếu tố khác can dự. Đó là hứng khởi hay đúng ra là tính cảm thụ, phát xuất tự con tim, và con tim thanh khiết bao nhiêu thì hứng khởi tràn đầy bấy nhiêu. Khi ai đó nói, 'Tên tôi đi liền với tác phẩm thì có quan hệ gì, vì thực sự là sách không phải do tôi nghĩ ra mà tôi chỉ là kẻ trung gian', thì người ấy sẽ luôn luôn có được những ý tưởng cao đẹp nhất. Thế nên con à, khó khăn của con đã được giải quyết xong, và con không phải bận tâm gì khi dùng ý tưởng của chúng ta nếu con ẩn danh. Và thầy quả quyết rằng con sẽ được đền bù cách khác khi không lộ danh tánh như thế. 

– Con sẽ được đền bù bằng cảm giác dễ chịu là lòng biết ơn, tôi nói. 

– Và con thứ lỗi cho thầy khi thầy đọc tư tưởng của con vì mục đích tốt lành của công việc chứ? 

– Đương nhiên ạ.

...

Và đó là cách mà tôi viết chuyện sau khi thầy Justin Moreward Haig rời nước Anh, nhận được tư tưởng của ngài dù cách xa vạn dặm. Ít nhất điều này chứng tỏ là sự kiện thần giao cách cảm có thật nếu không muốn nói tới những điều khác. (Một tác phẩm khác của Cyril Scott viết theo lối này là The Adept of Nazarene, rất nên đọc). 

 

CHƯƠNG XVIII 

SỰ  RA  ĐI

 

Nay tôi ngần ngại nói đến cách mà người tôi quí chuộng nhất trong số người tôi quen biết đã rời London để làm việc ở một nơi khác của trái đất, phần việc mà tôi không thể nói vì được yêu cầu vậy, và thế là đủ. 

Ngay từ phút đầu khi gặp thầy Justin Moreward Haig tôi đã xem ngài là người lạ thường, nhưng nếu cuộc gặp gỡ của hai chúng tôi gây ấn tượng mạnh mẽ cho tôi thì sự chia tay khiến tôi có ấn tượng mạnh hơn gấp bội, vì nó cho thấy một khía cạnh của bản tính ngài mà từ trước tới giờ tôi không biết tuy tôi tin chắc rằng có, nhờ vào những buổi thảo luận khác nhau về huyền bí học. Xin nhắc lại là thư của em tôi viết cho tôi và ghi lại trong sách này nói tới những cuộc du hành rộng rãi của thầy ở Ấn Độ và những nơi khác, cùng những việc lạ lùng mà ngài chứng kiến ở vùng đất lãng mạn nhất và huyền bí nhất ấy (không dịch trong bản Việt ngữ bạn đang đọc). Từ lá thư đó ta thấy rõ ràng là ngài nắm được hiểu biết bí mật của nơi này mà chỉ một số rất ít người sở hữu. Tôi cũng nhớ có lần ngài nói rằng không phải các Chân Sư Minh Triết chỉ hiện hữu tại Ấn Độ mà thôi, nghĩ như thế là nhầm lẫn vì sự thực là các ngài có mặt khắp nơi kể cả Anh quốc. 

Tôi hỏi ngài nếu quả vậy thì tại sao công chúng ít nghe nói tới các vị ấy, ngài mỉm cười khoan dung có hơi thú vị và đáp rằng chỉ có nhà huyền bí học rất cao mới nhận ra được ai là đạo sư khi gặp người như thế ( tựa như câu 'Ai là Phật thì mới biết ai là Phật'), vì không ai ở mức đạt cao như vậy lại hoặc tự quảng cáo hoặc để cảnh ngộ quảng cáo cho mình. Ngài giải thích.

– Người hàng thịt và người hàng xén chỉ cúi rạp chào ông vua vì họ biết người đó là vua; nhưng để ông vua đi ngoài đường phố không ai biết thì chẳng ai để ý tới ông làm gì. Thầy quen biết nhiều một Vị đã ba trăm tuổi, nghe thì lạ nhưng ngài trông giống 40 tuổi hơn là 300 tuổi, và chỉ có rất ít người biết vậy khi gặp ngài. Mà như thế là để bảo vệ cho ngài, vì nếu ai thấy rõ sự thực thì người ta sẽ hóa ra hiếu kỳ làm cuộc sống trở thành khó khăn, gây cản trở cho hoạt động rất quan trọng của ngài. 

Tôi hỏi. 

– Nếu Vị ấy có thể sống lâu đến vậy thì con chắc ngài có thể làm được những điều khác mà người ta gọi là phép lạ phải không? 

Thầy đáp. 

– Chắc chắn ngài làm được, nhưng ngài không làm. 

– Nhưng nếu làm vậy mà thuyết phục được nhân loại chấp nhận một chân lý tuyệt vời nào đó thì con nghĩ là Vị ấy nên làm. Tôi hăng hái nói. 

Thầy lại mỉm cười đầy lòng khoan dung và nhẫn nại, cho thấy đã nghe lý luận này của tôi nhiều lần. 

– Con hay lẫn lộn giữa niềm tin tưởng hời hợt và nét tinh thần, ngài nói. Việc biểu diễn hiện tượng không hề làm con người có nét tinh thần. Lấy thí dụ một nhạc sĩ dương cầm đại tài có thể được bịt mắt mà vẫn chơi đàn dễ dàng, nhưng biểu diễn tài nghệ như vậy có bao giờ làm người không biết nhạc trở thành biết nhạc không? Con quên rằng làm thỏa mãn lòng tò mò vô bổ là thỏa mãn lòng kiêu hãnh của chính mình. Đại nhạc sĩ dương cầm mà bịt mắt chơi đàn là hạ phẩm cách của họ phải không? Vậy nó cũng hạ phẩm cách y thế khi vị đạo sư thực hiện điều người đời gọi là phép lạ. 

Tuy nhiên tôi cứ một mực nài nỉ. 

– Nhưng sách ghi là đức Chúa có làm phép lạ. 

– Ngài không hề làm phép lạ mà không có lý do đầy đủ. Ngài chữa lành vì người ta đau ốm, ngài hóa phép ra thức ăn vì dân chúng đói lòng, ngài khiến bão lặng sóng êm vì đệ tử của ngài kinh hoảng, nhưng ngài không 'biểu diễn' hay làm thỏa lòng tò mò vô ích, và một đạo sư khác là Appolonius của Tyana cũng hành  xử giống vậy. 

Tôi hỏi thầy là người có thể học được hiểu biết cần thiết để làm phép lạ hay không. Ngài đáp. 

– Được và không được. Được, vì nó chỉ cần có đặc tính cần thiết, còn không được là vì đa số người không màng có những đức tính này. Con thì đang trên đường đạt tới chúng, và không chừng trong một kiếp sau con sẽ tiến xa đến mức làm được phép lạ nếu muốn. 

– Còn thầy? tôi hỏi. Thầy biến ra vật được không? 

– Con đặt với thầy câu hỏi thẳng thắn, ngài cười và nói, nên thầy khó mà nói gạt, nhưng khi thầy xác nhận thì xin con chớ hé môi bao lâu mà thầy còn ở London. 

Tôi hứa sẽ tuyệt đối kín miệng. 

– Dĩ nhiên là không có gì gọi là phép lạ, ngài tiếp tục dạy. Các vị trong Thiên đoàn (Hierarchy) chỉ sử dụng những luật của thiên nhiên mà đa số người không biết, chỉ có vậy thôi. 

– Nhưng tại sao hiểu biết đó không được phép phổ biến? Tôi hỏi. 

– Vì nhân loại chưa phát triển đủ về mặt tinh thần để dùng nó một cách đúng đắn. Đưa hiểu biết ấy cho ai không có đức tính cần thiết thì họ sẽ làm đảo điên vũ trụ. 

Tôi thắc mắc. 

– Đó là những đức tính gì? 

– Hoàn toàn vô ngã, khoan dung tột bực, mất hẳn lòng kiêu hãnh, tự chủ tuyệt đối và tất cả những đặc tính tinh thần khác.

– Nói khác đi, là trở thành toàn thiện. 

Ngài đồng ý. 

– Nói sát nghĩa thì đó là người toàn thiện. 

Tôi thở dài

– Vậy thì không có con trong đó. 

Ngài phá ra cười và nói. 

– Con quên rằng con còn sự vĩnh cửu trước mặt thế nên có nhiều thời gian. 

Nếu tôi nhớ đúng thì câu chuyện trên xẩy ra một thời gian ngắn sau khi tôi quen thầy và từ lúc ấy, nhờ những sách thầy đưa cho xem tôi đã có hiểu biết khiến nhìn lại sự việc theo quan điểm mới. Dầu thế tôi cũng còn đầy óc tò mò và rất mong được thấy biểu diễn những quyền năng mà thầy cho biết là có sở hữu, tôi thường xin ngài cho xem một biểu diễn rất nhỏ nhặt nhưng thầy luôn luôn từ chối hết sức nhẹ nhàng. Thế rồi vào đúng lúc chia tay ngài thuận theo lời yêu cầu của tôi. 

Ngài chuẩn bị phần nào cho tôi về việc sắp ra đi, vì thầy bảo tôi rằng thời gian của ngài ở London sắp hết và tôi đừng mong là còn được ở cạnh ngài lâu hơn về mặt xác thân vật chất, tuy về mặt tinh thần và tình thương thì không bao giờ ngài và tôi bị chia lìa. Chuyện xẩy ra như sau. Tôi có thói quen khóa cửa phòng ban đêm vì có thời gian tôi thường ở khách sạn. Vào đêm có chuyện tôi sắp kể đây thì tôi vẫn giữ thói quen đó. Tôi lên giường khoảng nửa đêm và ngủ ngon giấc một mạch tám tiếng đồng hồ. Sáng hôm sau còn mơ mơ màng màng tôi nhận ra mùi hương hoa hồng hết sức dịu ngọt. Có vẻ như tôi nằm mơ về hoa hồng, nhưng khi mở mặt thì tôi kinh ngạc thấy trên gối cạnh đầu có một lá thư và nằm trên đó là một đóa hồng lớn. 

Tôi nghĩ ngay rằng mình đã không khóa cửa và người giúp việc đã bước yên lặng vào phòng, nhưng vì bà không quen làm vậy tôi mới bắt đầu nghĩ rằng chuyện phải có gì quan trọng hơn. Tôi mở thư đọc và nỗi thắc mắc tan biến. Thư viết.

Con thân mến. 

Khi con nhận được những dòng chữ này thì thầy đã tới được chỗ mà lúc này chưa tiện nói. Quãng đời của thầy tại London nay đã xong, và cho sự phát triển của riêng thầy thì điều hệ trọng là thầy phải xa lánh khỏi thế giới bên ngoài chừng vài tháng. Trong tương lai một phần việc khác được giao phó cho thầy, và con cùng thầy sẽ không gặp nhau bằng thể xác trong thời gian sắp tới, tuy bất cứ khi nào con cần thầy giúp đỡ thầy sẽ cảm biết được việc ấy và đáp lại lời yêu cầu của con. 

Thầy tránh nỗi buồn rầu vô ích của việc gặp mặt, giã từ vì con à, thầy biết con là người dễ cảm và muốn tránh sự đau lòng cho con. Dầu vậy trên thực tế không có gì là chia tay giữa những linh hồn thực sự cảm thông nhau, vì ai yêu nhau thì thường gần nhau dù cách xa vạn dặm về mặt thể chất, hơn là ai không cảm thông mà sống sát bên nhau. Vì vậy khi chào từ biệt chúng ta đừng xem đó là sự chia tay, chỉ khi tình thương và ký ức chết đi thì mới có phân cách, nhưng tình thương giữa con và thầy không thể nào chết vì nó đã có đó từ bao kiếp qua, cảm thấy đau lòng khi chia tay là cảm biết một ảo tưởng hơn là niềm vui của thực tại. 

Nói về những năm qua mà chúng ta làm việc đầy tình thân với nhau, thầy muốn cám ơn con về lòng thiện cảm đã làm cho năm tháng ấy hết sức vui vẻ, cùng tinh thần cởi mở của con khiến thầy có thể gieo vào tâm con chút hiểu biết về Thiên đoàn. Bởi chúng ta (các Chân Sư) cám ơn ai cho phép chúng ta giúp họ một khoảng trên đường tiến hóa, vì như thế là cho chúng ta cơ hội làm điều mà chúng ta muốn làm trên hết thảy, và họ không phải là người cần cám ơn chúng ta. 

Với những việc khác, mong rằng tất cả xẩy đến cho con một cách tốt lành, và mong sao con không sống trong quá khứ hay tương lai, mà hằng sống trong hạnh phúc không thay đổi của Vĩnh cửu rộng lớn.

 Luôn là người bạn hết lòng của con.  

J.M.H

Ngay khi đọc xong thư này, tôi đi ra cửa phòng và thấy nó y như lúc tôi lên giường ngủ đêm qua, tức khóa trái bên trong và chìa khóa còn nằm trong ổ. Rồi tôi hiểu ra rằng cuối cùng thầy Moreward đã thuận theo lời nài nỉ của tôi và cho một thí dụ về việc làm hiện ra vật. Ít nhất thì đó là cách tôi giải thích chuyện gì xẩy ra trong phòng, tuy người khác có thể nghĩ ra lối khác và cho rằng tôi giàu óc tưởng tượng cùng dễ tin. 

Không cần phải nói thì đó là cách chấm dứt cho việc tôi dự vào công tác nhân ái của thầy Justin Moreward Haig. Tuy thỉnh thoảng tôi gặp ngài trong thể tình cảm và nhờ vậy được tiếp xúc với ngài, nhưng ngài chỉ xuất hiện với tôi khi tôi cần được chỉ dạy liên quan đến sự phát triển tâm linh của mình, thế nên tôi không thể theo dõi hoạt động của ngài. Nhìn lại những chuyện đã qua, tôi thấy một điều rất rõ là các nhân vật, ngoại trừ thầy, là người thật bình thường hay gặp trong cuộc sống. Có một lần ngài nói về loại người cứng ngắc khô khan rằng. 

– Vấn đề càng khó chừng nào thì nó trở nên càng thú vị chừng ấy, vì không có ai khó đối phó cho bằng người thường hết sức. 

Và đó là lý do tại sao một phần lớn năng lực của ngài lại dành cho người như vậy, thầy giải thích thêm. 

– Thi sĩ, nghệ sĩ, triết gia có trí tuệ dễ cảm thụ nên họ không cần sự tiếp xúc riêng với chúng ta, Thiên đoàn có thể gây ấn tượng một số tư tưởng và lý tưởng vào trí họ từ cảnh giới cao hơn cõi trần, nhưng người ngoài đường phố thì khác hẳn, chỉ bằng cách vụng về hơn là chuyện vãn với họ mới mong đạt được vài điều. 

Thế nên một trong những mục đích của cuốn này là để cho thấy rằng dù cảnh sống ở đời có tầm thường, chán ngán thế nào đi nữa, ai có quan điểm gợi sự an vui có thể tạo nên hạnh phúc chung quanh mình, và làm vậy là đem hạnh phúc chân thật duy nhất không bao giờ mất đi vào chính tâm họ.

Chấm dứt quyển một 'The Initiate', xuất bản năm 1920 (phần hai 'The Circuitous Journey' của sách sẽ đăng riêng khi thuận tiện).


 

PHẦN II

THE CIRCUITOUS JOURNEY


 

Ta vừa chấm dứt bộ ba quyển The Initiate trong số trước, tiếp theo đây là phần hai của quyển I.

Cách phần này, tên The Circuitous Journey, được viết đã ghi trong chương cuối của phần một, nhưng cần có thêm vài lời giải thích. Nó được gọi là viết qua trung gian một người cảm thụ, và là cách thức mà ai có hiểu biết về huyền bí học hay các phương pháp huyền bí nhận biết, nhưng công chúng chưa có hiểu biết về điều này và có lẽ đa số có lòng nghi ngờ, và cho dù tôi có thuật chuyện thì nhiều phần là họ vẫn hoài nghi. Dầu vậy, lòng hoài nghi không làm thay đổi sự kiện, hay lời biện luận của ai không thấy có thể làm tiêu tan niềm tin của ai đã thấy, vì như bà Besant nói thật mạnh mẽ, ‘Sự vô minh không hề thuyết phục được sự hiểu biết’. Nhưng cho dù tình trạng như vậy, ít nhất với ai chịu lắng nghe, tôi bắt buộc phải bầy tỏ niềm tin là những tư tưởng đạo đức, triết lý và huyền bí nằm trong những trang sau, đã được gieo vào tâm trí tôi bởi vị Đạo sư mà nay tôi có thể gọi đúng đắn là Thầy của tôi. 

Quả thực là trong vài trường hợp tôi có thể vô tình làm bẻ cong vài ý tưởng như thế, và đưa ra chúng sai lạc, nhưng nếu vậy thì phần lỗi hoàn toàn là do tôi, mà không phải nơi Vị dùng tôi làm phương tiện.

Nói về cách thức dùng để viết chuyện, thầy Justin Moreward Haig cho tôi vài chỉ dẫn trước khi ngài rời London.

- Dùng Anh văn kiểu xưa, trôi chảy, và càng thi vị càng tốt, ngài nói, vì chân lý huyền bí tạo ấn tượng cho người đọc dễ dàng hơn nếu được viết bằng ngôn ngữ du dương. Và cũng tìm cách điểm trang câu chuyện lớn bằng nhiều câu chuyện nhỏ hơn, và đừng  quên dùng rộng rãi các dụ ngôn và so sánh.

Thế thì tôi cố công thực hiện những chỉ dẫn này tới hết sức mình, và chỉ cần thêm một việc nhỏ đáng nói. Khi thầy Haig kể một loại chuyện nào đó hay bàn về đạo đức, tôi để ý thấy ngôn ngữ của ngài có âm điệu và trôi chẩy rất lôi cuốn, gây chú ý mạnh mẽ. Nào, điều lạ là khi bắt đầu viết chuyện, tôi thấy mình bắt chước chính ngôn ngữ đầy nhạc điệu ấy mà không biết. Ngày kia khi đặc biệt cảm nhận sự hiện diện của Thầy, tôi nêu lên câu hỏi trong trí.

– Thầy có gây ấn tượng cho con cách viết cũng như là ý tưởng ?

Câu trả lời đưa ra là.

– Ta không thật sự gây ấn tượng cho con, nhưng con có nét viết theo cách mà ta có thể viết, chỉ vì hai chúng ta thân cận nhau biết là dường nào.

...

I

Lâu lắm rồi, vào thời trước và ở vùng núi non xa xôi, có một người giầu có sinh sống ở đấy, tên Antonius; anh đã hưởng thụ hết mọi thú vui mà sự giầu có của anh có thể mang lại, và đâm ra chán chường vì quá no đủ, tựa như đứa trẻ chán ngán một món đồ chơi đã mất hết sức thu hút. Khi thấy cuộc đời buồn tẻ quá không sao chịu được nữa trong tâm trí đã bị sự hoan lạc làm chai lì, anh quay sang học hỏi những cổ thư và tích xưa, cố công làm trôi qua ngày giờ dài dằng dặc bằng việc thâu thập hiểu biết, sống đơn độc và không tiếp một ai; vì sự viếng thăm của bạn bè thuở trước chỉ gây xáo trộn cho anh trong khi theo đuổi việc học.

Ngày kia, khi đang ngồi đọc sách theo thói quen trong bóng mát ngoài vườn, tình cờ có một người hành khất già qua cổng đi vào, lại đứng trước mặt anh xin bố thí. Do tánh tình tốt lành và không keo kiệt, anh mở túi đưa cho một nắm đồng xu, chào vui vẻ và cầu chúc ông được may mắn. Nhưng người hành khất già, sau khi cảm ơn lòng rộng rãi khác thường của anh, nói.

– Hỡi Ân nhân Hào phóng, xin đừng vội kêu tôi lui ra, kẻo tôi rời mà không đền đáp lại cho anh điều anh vừa làm; vì như thế thật là không phải phép, vì anh cho tôi nhiều hơn tôi có thể mong ước.

Antonius nghĩ thầm.

– Người này có thể có gì mà nói chuyện đền đáp ?

Anh cười dễ dãi, rồi cho ông đứng lại, nhìn nghiêng ngờ vực, chờ xem ông có thể nói gì. Nhưng người hành khất già mỉm cười vui vẻ đáp lại và nói.

– Ồ, hỡi người muốn làm triết gia, hãy biết rằng bề ngoài có tính gạt gẫm, và minh triết đôi khi khoác lấy y phục rất khiêm tốn, bởi kẻ nghèo cũng như người giầu đều có thể có nó, và cũng hãy biết rằng sự may rủi là chữ huyễn hoặc không có chỗ trong Chân Lý, và điều mang tôi tới đây hôm nay không phải là chuyện tình cờ như anh tưởng, mà là kết quả của lòng mong ước, làm việc vô hình qua những lực của Thiên nhiên. Vì thực sự là việc tôi đến đây chỉ là kết quả của lòng khát khao hiểu biết của anh, và lòng rộng rãi của anh là dấu hiệu cho phép tôi để anh bước qua cánh cửa thứ nhất dẫn tới con đường bí mật đi tới Chân Lý, vì Chân Lý mà tôi muốn dành cho anh chỉ có thể đạt được bởi ai có tâm trí rộng rãi mà không bởi điều gì khác, thật vậy, không bởi điều gì khác.

Antonius vểnh tai chăm chú nghe, bụng nghĩ thầm.

– Ta thật đã nhìn lầm người hành khất già này, vì dù sao đi nữa, trông ông có vẻ như nhà hiền triết, và nói chuyện với giọng học thức hơn là dốt nát, vậy lắng nghe và để ý tới điều ông nói sẽ có lợi cho ta.

Nhưng anh nói lớn.

– Hỡi Khách lạ, thật giầu minh triết mà thật nghèo của cải, xin đừng nghĩ rằng tôi muốn cho ông ra mà không lắng nghe ông; ngược hẳn vậy, xin ông ngồi xuống, kẻ hầu của tôi sẽ mang thức giải khát trước khi ông lên đường, vì ông có vẻ của người đi xa, và phải chăng ông đã rất cao tuổi ?

Và rồi người hành khất già ngồi xuống, xếp hai tay lên chiếc gậy sần sùi, trong lúc Antonius vào nhà ra lệnh mang trái cây, bánh mì và rượu ra vườn cho anh, rồi trở ra chờ xem ông cụ muốn nói gì. Sau khi nhã nhặn cám ơn, ông cụ nhìn dò hỏi và đăm đăm vào mắt anh, nói.

– Hỡi Người Tầm Đạo ! Chỉ có phần hết sức sơ đẳng là có thể lọc ra từ những trang sách, và tuy anh chăm chỉ đọc sách đã lâu, việc học của anh chỉ vô ích trừ phi anh biết như thế. Vì hãy biết rằng chân hiểu biết chỉ có thể được tìm thấy trong lòng, và cách đi vào lòng là qua con tim, bởi mọi tối tăm phải được quét sạch bởi ánh sáng của lòng xả kỷ. Và như thế, anh có nhiệm vụ để sách vở qua bên, đi tìm hiểu biết ở nơi khác, rời nhà cửa và để tài sản lại cho gia nhân coi sóc cho đến khi anh trở lại. Vì điều mà anh đi tìm không thể thấy được ở đây, mà ở trên đỉnh của ngọn núi tuyết phủ xa vời vợi, nơi các Chân Sư Minh Triết ẩn cư, hằng trông mong truyền giao kho tàng Giác ngộ cho ai đủ can đảm và kiên tâm theo đường dài lên núi.

‘Nhưng, chỉ những ai có lòng vô ngã mới có quyền nhận lãnh hiểu biết ấy, một trong các điều kiện của các ngài là nếu anh không hành trình một mình mà còn đưa người khác tới đền Minh Triết của các ngài; và ngay cả khi những người này hóa chán ngán với việc lên dốc mà thối lui quay xuống, để lại anh theo đuổi chặng đường còn lại một mình, các Chân Sư vẫn tiếp nhận và cho anh phần thưởng. Nhưng hãy biết rằng con đường dài đăng đẳng, như anh có thể thấy bằng cách đo khoảng cách tới rặng núi xa tít kia, và công việc gian nan, khó nhọc, tuy nhiên có nhiều trạm nghỉ chân trên đường như phố xá, làng mạc, nơi anh có thể dừng bước nghỉ ngơi. Ở mỗi nơi dừng chân như thế, anh sẽ được biết không những về chặng đường sắp tới, mà luôn cả một phần hiểu biết, để chuẩn bị cho anh như là lần chứng đạo sơ khởi với mục đích cuối cùng là sự giác ngộ. Và mục đích ấy không gì khác hơn là việc khai trừ được sự tử và có được sự An Lạc vô biên.

Rồi Antonius nói.

– Hỡi lão trượng đáng kính, tuy thân xác ông hao gầy vì bao năm tháng, lời nói của ông vẫn giữ được năng lực của thanh niên, và ngôn từ thoát ra nơi ông như giòng sông nhỏ tuôn lẹ làng ra biển Minh Triết, nên nghe chân thực trong tai tôi. Nhưng dù sao ông đòi hỏi điều bất khả, muốn rằng tôi tìm những người khác làm bạn đồng hành trên chặng đường dài và gian khổ như vậy, vì làm sao tôi tìm kiếm những ai ao ước sự hiểu biết, chẳng những nó lạ mà còn phải mua với giá lạ lùng và khó khăn như thế? Hơn nữa, ai sẽ tin nếu tôi bảo rằng bên kia núi có những ẩn sĩ sở hữu điều bí mật mà họ chưa hề nghe bao giờ, và rất có thể là họ cũng không màng tới? Ông có nghĩ là những bạn rượu chè ngày trước của tôi sẽ chẳng làm gì ngoài việc cười vào mặt tôi, nếu tôi đề nghị với họ chuyện kỳ dị không thể kiểm chứng như thế ư? Thật sự là, tư cách ông có thể không có chút nào đáng nghi, nhưng những điều kiện của ông quả khó mà thực hiện.

Người hành khất già khi nghe lời nghi ngại này nở một nụ cười trên gương mặt nhăn nheo và đáp.

– Hỡi Kẻ Vô Minh, nếu những điều kiện của các Đấng Cao Cả đặt ra không thể thực hiện được trong trường hợp của anh hay của ai khác, thật tình ta sẽ không tới đây phí năng lực bàn chuyện vô bổ, và nói điều không thật. Bởi chẳng phải ta có nói rằng ta đến do lệnh không thể cãi được của số mạng ư, nhằm trả lời cho ước nguyện của anh, mà không phải là ảo ảnh của sự Tình Cờ, hay điều may mắn? Vì vậy trước khi anh nói ta hay rằng đó là chuyện bất khả, hãy tin và lắng nghe điều ta sẽ nói thêm, bởi tuy không hay nhưng anh đã đi một chặng trên đường dẫn tới Minh Triết, và đã làm tròn một số điều kiện của những Đấng Cao Cả mà anh không biết và ta chưa nói ra.

Và trong khi ông nói vậy, gia nhân trong nhà đi ra băng qua bồn cỏ xanh, mang theo một khay đầy  bánh trái và rượu, nên ông ngưng lại, chờ tới khi họ quay trở vào nhà rồi nói tiếp, nhã nhặn làm ngơ cử chỉ của chủ nhân mời ông giải khát. Ông nói.

– Nay ta xin cho hay anh đã đi một chặng trên đường dẫn tới sự hiểu biết ra sao, vì không phải anh đã chán ngán việc rượu chè no say, ham muốn phụ nữ, cùng tất cả những lạc thú mà sự giàu sang của anh có thể mang lại ư; và chẳng phải anh đã quay lưng với chúng vì chúng làm anh phát ốm, làm ngũ quan anh cùn nhụt, như nhiều mật làm khẩu cái chán ngấy? Không phải anh đã bỏ rơi hết tất cả không chút cực nhọc, vì chúng chẳng còn cho anh vui thích nào?

Antonius nhìn ông lão và đáp.

– Quả thật tôi đã làm như ông nói, nhưng có con đường nào khác cho tôi theo đuổi, khi thấy rằng bấu víu vào lạc thú không còn mang lại niềm vui là khùng điên cực điểm, tựa như ôm lấy hình bóng phất phơ không cứng chắc gì hơn không khí  sao? Cũng như tôi không thấy có công trạng gì trong việc sẵn lòng vứt bỏ điều làm tôi chán ngán, vì chỉ khi hành động của tôi đi ngược với lòng ao ước thì mới có công, thay vì thuận theo nó.

Người hành khất già mỉm cười đầy vẻ hiểu biết và nói.

– Hỡi Kẻ Ngây Thơ mà có nhuộm một giọt  minh triết ! Chỉ ai từ bỏ mà không cần cố gắng chút nào mới thực là từ bỏ; vì kềm lòng với điều mà tâm trí vẫn còn ham muốn là bước trên bờ vực sâu, vẫn còn bị nguy cơ rơi xuống hố thẳm; và xác chết tan nát thì còn có lợi gì cho ai muốn truyền đạt hiểu biết. Bởi tựa như xác chết không thể nghe, hóa điếc với mọi âm thanh, ai bị gậm nhấm bởi con sâu dục vọng cũng không thể nghe, vì họ hóa điếc với mọi Minh Triết. Vậy nay hãy suy gẫm và đi sâu vào ngõ ngách của ký ức anh, xem trong số bạn bè không chừng có vài người anh có thể đem theo cùng với anh tới Chân Lý; và nếu không có ai mà anh yêu quí, không chừng có những người vẫn còn yêu quí anh, và vì tình thương đó nếu không vì điều gì khác, sẽ theo anh trên con đường lớn.

Và rồi, sau khi giải khát chút ít, người hành khất già chậm rãi đứng lên khỏi ghế, chào chủ nhân còn hoang mang, lên đường ra đi.

 

II

Antonius có một người bạn, khác với những bạn khác của anh, và anh quí mến, tận tình thiết tha, bền chặt, thấy người bạn là gương học tập, nhân từ và thương yêu. Người này sống không xa anh, trong villa sát biển có cây trắc bách diệp bao quanh, một người giàu có lớn mà không như người giầu, chọn cách sống giản dị và vừa phải hơn là quá độ, ăn chơi. Antonius nghĩ thầm.

– Ta hãy đi thăm Pallomides, xin anh lời khuyên về đề nghị của người hành khất già bí ẩn này, vì chẳng phải anh là người đã cho ta mượn những sách đã học bao lâu nay sao; bởi vậy nhiều phần là anh có thể cho ta hay phải theo đường nào, nếu quả thật phải chọn đường mà theo.

Thế nên, tư tưởng vừa nẩy sinh thì anh lập tức đi ngay, theo con đường trắng râm mát, có cành lá giao nhau che phủ, đứng tựa như lính canh hai bên đường, để cho mầu xanh đậm của bầu trời không một gợn mây thấp thoáng xuyên qua kẽ lá. Khi đi tới gần villa mà bạn anh cư ngụ, anh có thể thấy hình dáng cao lớn, đẹp đẽ đang dạo bước tới lui trên sân nhìn ra biển lặng, yên tĩnh; đầu Pallomides cúi xuống quyển sách, chốc chốc lại ngẩng lên, như thể hít lấy hương thơm của biết bao hoa hồng hướng về mặt trời ban mai. Rồi thấy Antonius đang lại gần, nụ cười vui vẻ chào đón nở rộng trên gương mặt trầm tĩnh có nét cổ điển của Pallomides, anh tiến lên gặp bạn, ôm chào theo tục lệ hồi xa xưa đó.

Antonius cho bạn hay mục đích cuộc viếng thăm và về người hành khất già đã khuyến dụ anh có cuộc hành trình lạ lùng không sao lường được, xin bạn giải thích cho trí não hoang mang điều nó nghi ngờ và muốn chìu theo. Pallomides nhìn anh với đôi mắt tươi cười không sao dò được và nói.

–  Anh có dễ tin quá không, hỡi anh bạn, có người hành khất già chẳng đáng trọng đến xin bố thí lại có thể khéo léo gây ấn tượng cho tâm trí anh với một đề nghị mà có thể không gì hơn là sự điên rồ rất mực, và nếu anh quyết định có cuộc hành trình, không chừng chỉ mang lại sự thất bại và hối tiếc? Dầu vậy, tôi cũng có nghe là trên đỉnh rặng núi xa có một tu viện với những tu sĩ bí ẩn có kho hiểu biết không lường được, và người ta có được phần thưởng đáng giá hơn tất cả của cải trên đời khi qua chặng đường leo núi dài, khó nhọc đến tới chỗ họ ở.

‘Tuy nhiên tôi không muốn khuyến dụ anh làm việc ấy vì đó là một trách nhiệm, mà khuyên anh đừng đi thì cũng là một trách nhiệm khác y vậy, bởi biết đâu đó, nếu ông hành khất già có thể không thật tâm tỏ lòng biết ơn và muốn đền đáp anh, cho anh biết điều mà ông vì đã già nên nó không làm lợi cho ông. Hơn thế nữa, không có gì mấy cầm giữ anh trong cảnh đời dưới này, thành ra cũng không hại gì về mặt này hay kia, bởi anh đang ở lứa tuổi sung mãn và còn sống nhiều năm trong đời, rồi khi trở về anh vẫn có thể theo đuổi việc học của mình, không chừng lại tốt hơn nhờ cuộc du hành và mạo hiểm.

Antonius nói.

– Anh nói nghe hay lắm, nhưng khó mà thực hiện những điều kiện đặt ra, và tôi kiếm đâu ra bạn để đi cùng với tôi trong việc tìm kiếm lạ lùng xem ra huyễn hoặc như vầy; vì trừ anh ra, do tâm hồn rộng rãi và có hiểu biết, còn có ai khác tôi có thể thuyết phục để tin vào tư cách của tôi, thay vì nhìn tôi như người điên hay thằng khùng ?

Pallomides đáp.

– Chắc chắn anh khen người không xứng với lời khen; vì  tâm hồn rộng rãi của tôi chẳng là gì hơn một chút khôn ngoan ở đời, hiểu rằng không nên gạt bỏ hoàn toàn một cơ hội nào gặp trên đường đời và để nó vuột mất. Và chuyện tìm người bạn đường cho cuộc hành trình của anh cũng không khó lắm đâu, vì nếu không có ai thì không chừng một phụ nữ thế vào cũng được.

Antonius bảo.

– Nhưng tôi không biết phụ nữ nào ngoài những ai tôi đã vui chơi khi trước, họ không hợp cho cuộc tìm kiếm của tôi; vì ngay cả khi tôi có thể kêu gọi được họ chịu theo tôi, không phải khó lòng mà những Vị Hiền Triết sẽ chịu nhận họ làm đệ tử cho hiểu biết cao siêu như thế sao? Hơn nữa tôi đã bỏ rơi họ, và quên họ như giấc mơ tan biến trong đời, gần như không còn nhớ tên họ; thế nên có muốn tìm cũng không được.

Pallomides nhìn bạn mình với ánh mắt của một người cha và nói.

– Ai đi tìm minh triết không làm ngơ ngay cả giấc mơ của mình, để biết đâu sự mỏng manh của nó có ý nghĩa quan trọng và đáng kể; và cho dù  nó không có gì, nhớ lại giấc mơ cũng là bài tập cho ký ức không nên chê bai, vì nếu anh không thể nhớ lại ít nhất tên của một trong những người tình của anh thì ký ức anh hẳn phải thuộc loại ngắn nhất; hay có lẽ anh nói không suy nghĩ, hay đang tìm cớ che dấu với tôi việc anh không muốn có phụ nữ làm bạn đường.

Antonius cười một cách ngượng ngập, và nói.

– Ồ, Kẻ đọc được  tánh tình người khác ! anh đoán trúng phần nào sự thật, vì tôi ngại phụ nữ sẽ tạo gánh nặng cho mình, bởi họ có thể hay muốn nghỉ chân, nấn ná hay quay về, tánh tình dễ thay đổi như làn gió, nước mắt  dễ rơi như mây đầy nước tuôn mưa ào ạt  khi qua tuần trăng.

Nhưng Pallomides nghiêm nghị trả lời anh, nói.

– Thế nhưng anh lại quên điều kiện đã đặt ra, và lo đi tìm sự dễ dàng cho riêng mình, tránh né việc đầu tiên phải làm để đạt tới phần thưởng; bởi không phải người hành khất già cho anh hay là chỉ có lòng quên mình mới có thể cho anh tiến vào Thánh Điện, và vì thế anh phải đi cùng với nhiều người khác, không phải để anh được thoải mái hay để chuyến đi bớt cực nhọc  trên chặng đường dài sao? Sao đi nữa, hãy vững lòng đi, tôi sẽ không thúc đẩy anh đi, vì tôi cũng không muốn ngăn cản anh đi, nhưng nếu anh muốn thử vận may theo lời của ông lão khôn ngoan ấy, thì thử làm chuyện nửa vời quả là khờ dại, bỏ qua một phần chỉ dẫn thật rõ ràng của ông, và thay vào đó chỉ làm theo phần kia. Vì thật ra có vẻ như phần mà anh loại bỏ thì có giá trị không kém gì phần mà anh tuân theo.

Antonius cười có chút nhuốm buồn và nói.

– Anh nói đúng lắm ở đây, vì anh biết rõ tôi hơn nhiều người khác, quả thật là chuyện gì đáng làm một phần thì cũng đáng làm cho trọn, và tuy tôi trước tiên muốn tìm người nam làm bạn đường với mình, nhưng nếu không được vậy tôi sẽ làm như anh nói là tìm người nữ thay vào đó.

Anh ngần ngừ một chốc, nhìn bạn mình có vẻ van nài rồi thêm.

– Tôi biết là vô ích nhưng mời anh đi với tôi có được không ?

Pallomides phá ra cười với vẻ vui thú tốt bụng, và trả lời.

– Phải, tôi sợ là nó vô ích.

Thế nên Antonius quay ra, trở về nhà mình, suy tính  miên man, nghĩ cách tìm một bạn đường và lời lẽ để thuyết phục họ về giá trị của chuyến đi, nếu tìm ra người. Anh suy nghĩ nhiều giờ cho tới khi chiều xuống ngoài vườn, và đi ra phố, dự tính thăm các thân hữu ngày trước nhưng không mong sẽ có thành tựu cho việc anh muốn làm.

Thế thì, sau khi gặp hết người này rồi người kia, không nhận được gì ngoài tiếng cười và lời chế nhạo vui vẻ cho công khó của anh, anh buộc lòng phải bỏ cuộc tìm kiếm mà anh đã đoán đúng là chẳng đi tới đâu. Anh tự nhủ thầm: – Ta thất bại hoàn toàn với bọn đàn ông, vì như ta đã ngờ, tính ra bọn chúng chỉ thích ta vì thức ăn ngon và rượu ngọt ta đãi chúng ngày xưa, mà không phải vì quí mến ta, vì khi ta hỏi xin có hồi đáp một chút, cả bọn ai cũng như ai đều chối từ, cười vào mũi ta, xem ta như thằng khùng. Vậy nay ta hãy thử với cánh đàn bà, vì có người ít nhất đã nói thương yêu ta, thề thốt sẽ luôn luôn yêu quí ta tuy ta đối xử tệ bạc với cô, và xa lánh cô không còn liên hệ gì. Nay không chừng cô vẫn còn thương ta, và lại còn tin vào chuyện ta muốn làm, cô có thể đi cùng với ta vì tình thương ấy, nếu không vì điều gì khác hơn; bởi có gì cột cô gái làng chơi vào chỗ này hay kia, và ta lại có tiền chi dụng cho cả hai và hơn thế nữa, hẳn là không có gì khó khăn cho chuyện ?

Nên Antonius cuối cùng đi tới nhà cô Cynara, tình nhân ngày xưa của anh; anh kể cho cô nghe hết dự tính của mình trong lòng, còn về phần cô thì mở to mắt lắng tai, rất lấy làm lạ lùng mà cũng đầy tình yêu không hề phai nhạt. Nhưng trong lúc kể chuyện, anh để ý là cô đã già đi, và nhiều nét đẹp khi xưa của cô đã phai tàn theo năm tháng, thân hình cô ốm hơn, mắt cô trũng sâu hơn với vẻ mệt mỏi của tâm hồn làm anh thấy tội nghiệp, mà cùng lúc khiến anh tránh xa cô một chút. Anh nghĩ thầm khi nhìn cô và nói chuyện trong ánh sáng mờ lúc chiều hôm.

– Ta thật tình ước là cô thương yêu ta ít hơn, vì chắc chắn cô sẽ làm ta ngượng nghịu với lòng tận tụy của cô, và không chừng ta phải giả vờ tỏ tình yêu mà lòng nguội lạnh từ lâu. Mà nếu cô không còn thương yêu ta nữa, chắc chắn cô sẽ không thuận làm điều ta hỏi xin, và chịu theo ta làm cuộc hành trình, thế thì ta phải chấp nhận sự phiền nhiễu do tình thương của cô mang lại như cái giá cho việc cô làm bạn với ta, và gắng chịu đựng nó.

Khi anh thuật xong rồi, đi tới cuối câu chuyện, cô nhìn vào mắt anh, trả lời đùa bỡn.

– Hỡi Kẻ không có niềm tin, mà lại đáng yêu ! Tuy anh đã rời bỏ tôi bao năm qua, không hề có thư từ hay lời thăm hỏi xem tôi mạnh khỏe thể nào, và chỉ bây giờ khi cần tôi làm việc gì cho anh, mới tìm đến tôi như là kế cuối cùng; tuy vậy bởi tôi vẫn còn thương anh, tôi sẽ đi cùng với anh trong chuyến đi lạ lùng này, mừng là có được anh trở lại khi tôi tin là đã mất anh luôn. Vì cũng giống như anh chán ngán sự giàu sang của mình, tôi cũng chán chường với những cuộc tình của tôi, và vui lòng chấm dứt hết tất cả chúng, đi tìm điều gì khác hay hơn trên đường đời. Chuyện càng nên làm vì những cuộc tình của tôi chỉ có danh mà không có thực, vì thấp thoáng trong mỗi cuộc tình đều có hình ảnh của anh không tan biến, và kỷ niệm còn sống mãi về anh và tình yêu của anh, và tuy tôi biết rõ là anh không còn thương yêu tôi nữa, dầu vậy tôi sẽ một lòng trung thành đi với anh mà không đòi hỏi gì đáp lại.

Antonius hân hoan trong dạ, tự bảo thầm.

– Cuối cùng ta cũng tìm được người đi cùng với ta, nay không còn nghi ngại chi, ta có thể chuẩn bị cho cuộc hành trình không chần chờ gì nữa.

Nhưng anh nói với Cynara.

– Cô luôn luôn cao thượng và đối đãi với người khác khá hơn là họ đã đối đãi với cô, coi việc hờ hững của tôi không có gì đáng nói so với sự tốt bụng của cô. Nhưng cô sẽ được đền bù ngàn lần bằng phần thưởng mà cô không thể mơ tưởng được cho tới khi cô biết đôi điều về chuyện. Nay tôi phải rời cô, và sẽ cho gọi cô khi tới ngày hẹn, tới lúc tôi chuẩn bị xong mọi điều thiết yếu cho cuộc hành trình của chúng ta. Từ đây tới đó, xin chào cô. (còn tiếp).

III

Antonius lại bắt đầu quay bước về nhà, lòng nhẹ nhõm và trí đầy mơ mộng cùng sự hăng hái mà anh không tìm cách đè nén. Anh bước đi, chìm đắm trong sự trầm tư vui vẻ, đột ngột có một tư tưởng phóng thẳng như mũi tên vào óc, làm cho trong một phút chốc anh có cảm tưởng như mọi dự tính tan vỡ như bọt xà phòng nổi trôi trong không. Vì khi quẹo khúc quanh trên đường đang đi, hình ảnh rặng núi xa chợt hiện ra trước mặt, vầng trăng tròn vừa lên tới đỉnh cao nhất soi nghiêng bóng núi trên nền trời xanh đen thăm thẳm. Anh nói thầm.

– Chắc chắn ta có điên mới nghĩ là có thể đi lên tới độ cao mây phủ như thế, trong khi biết rõ là từ xưa đến nay chưa hề có ai đặt chân lên đó, và chưa có lữ khách nào trở về kể chuyện. Và ông hành khất già hẳn đang cười nhạo ta trong lòng, càng đáng cười hơn nữa vì ông không cho hay phương hướng lên núi, mà chỉ cho hay điều kiện theo đó ta phải đi. Mà không phải ta đã không để cho ông đi trước khi xin ông hứa là sẽ trở lại và cho biết thêm phải tiến hành ra sao ư? Dễ thường nay ông đã đi mất biệt rồi, tìm ông chỉ vô ích như tìm vỏ sò nào đó trên đáy biển.

Rồi đột nhiên khi tới khúc quanh chót đằng trước nhà anh, làm như đối nghịch với tư tưởng của anh, ngay chỗ đó anh thấy chính ông lão hành khất ngồi chờ ở cửa vườn; tim anh đập rộn rã vì mong đợi, nên anh rảo bước cho tới khi lại đứng trước mặt ông. Người hành khất ấy đứng dậy, cúi người, mà không có lời mở đầu và không chờ cho Antonius lên tiếng, chẫm rãi nói như thói quen của ai lớn tuổi.

– Và nay, vì anh đã quyết định đi, và tìm được người đi với anh, hãy nghe kỹ điều lão sắp nói, vì không có chỉ dẫn thì rất khó cho anh tìm ra đường, người dẫn đường và nơi nghỉ chân ở mỗi chặng. Nhưng trước tiên hãy để lão đưa anh linh vật này, anh phải đeo vào cổ, dấu dưới áo vì nó là biểu tượng cho vị thầy tương lai biết anh là ai, và anh tìm kiếm điều chi; cũng như anh phải trình nó

ra mỗi khi có đòi hỏi, bằng không anh sẽ không nhận được chỉ dạy, và như thế cuộc hành trình thành uổng công.

Nhưng Antonius kinh ngạc ngắt lời ông và nói.

– Lão trượng với bao điều bí ẩn ! Làm sao ông biết là tôi quyết định làm cuộc hành trình lạ lùng này kia chứ, đừng nói tới chuyện tôi đã tìm ra một người bạn đường ?

Nhưng ông lão đưa tay ra dấu cho anh yên lặng, nói.

– Lão không có giờ để trả lời những câu hỏi vẩn vơ; vậy hãy cầm lấy linh vật này như anh đã nói, và nghe tiếp chuyện lão phải dặn anh.

Thành ra Antonius đỡ lấy linh vật từ tay ông, ông tiếp ngay.

– Giờ hãy biết rằng mục tiêu đầu của anh là ngôi làng nằm ở  sườn thấp nhất, dưới chân hai hòn đá lớn de ra mà anh sẽ thấy khi đi tới, khoảng một ngày đường đi bộ. Tới căn nhà ở cuối làng mà anh biết chỉ có một con đường dài, hãy gõ cửa, chủ nhà sẽ mời vào và cho anh hay phải làm gì tiếp. Chỉ cần mang theo ít tiền, ăn mặc giản dị, trông lôi thôi như hành khất hơn là phú gia; và không mang theo gia nhân nào, nhưng chỉ có một vũ khí cho anh chống đỡ khi bị tấn công, và một cây gậy giúp anh lên núi. Nay xin tạm biệt, và xin thần thánh hướng dẫn, che chở anh trên đường.

Không nói thêm lời nào hay có cái nhìn nào, người hành khất ấy quay đi, theo khúc quanh con đường mất dạng. Antonius, một mặt cảm thấy hoang mang, mặt khác lại hoàn toàn tin vào tư cách của ông lão, qua cổng vào nhà, nhất quyết lên đường không để trễ nãi hơn. Anh gọi gia nhân tới dặn dò.

– Ta sắp đi xa lo chuyện làm ăn hệ trọng, nhưng trong chuyến đi có bạn bè tiếp đón, vì vậy ta không muốn đem gia nhân theo, và muốn chuyến đi không có hành lý, người hầu hay bất cứ bận rộn chi. Ta đã định ngày mốt lên đường.

Sau khi cho hay như thế và ăn bữa tối đang chờ sẵn, Antonius đi nằm và ngủ một giấc tới sáng, nằm mơ thấy lão trượng bí ẩn khôn ngoan, Pallomides và Cynara, và đỉnh núi tuyết phủ tất cả hòa lẫn vào nhau, như là điều hay thấy  trong mộng mị.

IV

Tới ngày đã định Antonius và Cynara cùng lên đường, vì anh đã nhờ người báo tin với cô, cho hay điểm hẹn và ngày giờ ra đi. Anh cũng  không quên chào giã biệt Pallomides trong căn villa của bạn ở sát biển, vì ai biết được là sẽ có sự phân ly dài giữa hai người, hay có thể là sẽ  không có kết thúc chi. Hai người lữ hành bước đi khó nhọc trong nhiều giờ trên đường bụi, lúc nghỉ, lúc đi tiếp, lúc giải khát ở quán cạnh đường, hay nằm soài trên cỏ cạnh bờ suối nghỉ chân; đôi lúc họ ngâm bàn chân nóng và đau nhức vào nước lạnh của dòng sông, vốc nước rửa sạch bụi và mồ hôi tiết ra dưới ánh nắng mặt trời như thiêu đốt. Khi Antonius cảm thấy mệt mỏi với thời khắc trôi qua, anh nghĩ thầm.

– Ta quả là điên rồ mới chọn cách đi như ăn mày, không ngựa không gia nhân, lê chân bước nặng như đá mỗi lúc một tăng theo từng bước chân. Mà ta giàu sang, chỉ vì lời nói nhăng nói cuội của một ông lão hành khất lại bỏ hết chăn ấm nệm êm sau lưng, lên đường đi tìm điều mà ta cũng  không biết là điều chi.

Nhưng khi anh nhìn sang người bạn đồng hành can đảm lặn lội bên cạnh anh, gương mặt cô bình thản không lời kêu ca, tuy quầng mắt cô sâu thêm vì mệt mỏi. Và đáp lại cái nhìn của anh, cô nở nụ cười làm như sự mệt mỏi và khuyến khích hòa làm một; nhưng cô không nói gì, vì quá mệt không tìm ra lời để nói. Antonius nghĩ thầm.

–  A, phải chi ta có thể thương yêu cô như cô yêu thương ta, con đường của ta hẳn sẽ bớt chán ngán rất nhiều, và được tươi sáng chỉ bởi điều rất nhỏ là họ nụ cười, như cô tươi tắn lên khi ta tỏ ý quan tâm đến cô. Thật cô phải có trái tim cao thượng để tin tưởng tuyệt đối vào ta như thế, và yêu thương ta trong bao nhiêu năm dài, ngay cả khi có ảo tưởng về bao cuộc tình khác; và nếu cô  không tàn tạ nhiều như thế, biết đâu ta có thể thương yêu cô đáp lại một chút ?

Và anh nhìn lại cô lần nữa, nhưng lần này  mỉm cười với vẻ tốt lành trong ánh mắt mà anh chưa lộ ra trước đây, làm cho cô cười đáp lại với một niềm vui thoảng qua trong mắt; anh cảm thấy có thể tác động lên tâm hồn cô như bàn tay người nhạc sĩ dạo trên cây thụ cầm, tìm cách làm vang lên âm thanh hoan lạc. Ngay khi ấy một tư tưởng vụt hiện ra trong trí làm anh thật vui, nói thầm trong lòng.

– Ta có trò mới để chơi cho quên những giờ phút lặn lội, và khiến ta mau tới đích à? Chính sự giản dị của trò là phân nửa nét lôi cuốn của nó, nó có thể chơi ở bất cứ đâu, và  không phải chỉ giữa người bạn đồng hành hiện thời với ta. Mà thật lạ lùng ta chưa hề nghĩ đến nó trước đây, vậy mà ánh mắt của một thiếu phụ tàn tạ thương yêu ta, người mà ta không thể giả vờ yêu trả lại, lại là điều đầu tiên mở mắt cho ta thấy có nó. Nếu chuyện khác đi, nếu ta thương cô đáp lại, nhiều phần là mọi chuyện sẽ vuột khỏi trí ta, bởi nó mê mẩn vì tình yêu và lòng si dại, nên mù quáng với chuyện tế nhị hơn của con tim. Nay ta nhìn lại cô với ánh mắt còn thân thiện hơn trước, và để ý tới đáp ứng của cô, đã vì sao đó làm cô được vui, và ngắm nhìn ảnh hưởng của nó trên mặt cô, chẳng những làm ta vui một chút, mà còn mở tim ta như thể chiếu vào đó một tia nhỏ bé của biển hoan lạc vô biên, bí ẩn, sinh động bên ngoài.

Và anh nhìn cô lần nữa, lần này với nụ cười nhân từ, cầm lấy tay cô để giúp cô tiến lên đoạn đường dốc họ đang đi. Cô quay sang anh, tia nhìn có trộn lẫn với sự hân hoan, quí mến và cảm tạ, ép cánh tay của anh vào người cô một chút để đáp lại, tuy nhiên  không thốt ra tiếng nào. Rồi anh ân cần nói.

– Khi lên tới đầu con dốc này, mình sẽ nghỉ một lát trước khi đi sang làng xa kia tìm chỗ trọ qua đêm, vì cô đã đi đủ xa rồi và can đảm làm chuyện của mình không chút than van, ngay cả khi trời nóng bức và ngày dài lê thê. Nhưng tôi cảm thấy ngọn gió mát nổi lên từ biển đằng kia bên phải, và chúng ta đã lên tới vùng đất cao hơn. Tôi mong tứ chi cô cũng như tôi bắt đầu cảm thấy nhẹ bớt, bởi trên đồi giữa rừng thông  không khí thoáng đãng hơn.

Cô đáp.

– Đúng rồi, tim tôi nhẹ nhõm làm cho sự mệt nhọc ở chân tay gần như quên đi, và dù sự mệt nhọc có cột chân tôi vào mặt đất, tinh thần tôi lại tự do, cởi bỏ hết xích xiềng nặng hơn bất cứ gì có thể ràng buộc thân tôi; và tôi chịu ơn anh hết tất cả những điều này, bởi anh đã chọn tôi làm bạn đồng hành thay vì bao kẻ khác thích hợp hơn để đi với anh trong cuộc hành trình lạ lùng của anh.

Anh bảo.

– Không đâu, về chuyện này tôi phải giải thích với cô, là mỗi ai khác đã cười chê tôi, nhất định từ chối  không đi cùng; do đó nếu  không nhờ cô hẳn tôi không thể nào lên đường, và phải bỏ cuộc. Nay, tôi mừng là có cô làm bạn đồng hành thay vì ai khác trong những người kia, nên tôi nghĩ số mạng đã chọn cho tôi hay hơn là tôi chọn cho mình. Bởi làm sao tôi có thể tìm được một người đồng chí chịu được gian khổ và đáng tin như cô? Và ai có thể nói là chỉ dẫn cho tôi không chừng cũng sẽ do cô mà có, bởi cuộc hành trình này không gì khác hơn là cuộc hành trình tìm hiểu biết, và mỗi yếu tố trong đó có lời nhắn nhủ cho ai đủ bén nhậy để hiểu ra.

Cô nhìn anh đáp lại với nét ngọt ngào tới mức trong một lúc sự thâm trầm trong mắt cô át đi vẻ tàn tạ, làm anh tự nhủ.

– Biết đâu nói cho cùng ta vẫn còn thương yêu cô một chút, vì cho dù cô đã tàn phai nhan sắc, đôi mắt cô lại dịu dàng không sao tả được, và giọng nói cô êm nhẹ như hồi nào đến giờ.

Nên anh bóp chặt cánh tay cô thêm một chút, dịu dàng đỡ cô lên tới đỉnh ngọn đồi.

V

 

Và đêm hôm ấy, như anh đã hứa, họ ngủ trong quán trọ rồi khi trời sáng, dậy sớm lên đường, đi quanh co dọc theo những con suối róc rách, xuyên qua rừng thông có tán xòe ra như tán cây dù, và những khu vườn cam, cây olive, đủ mọi loại cây trái rậm rạp, lấp lánh trong ánh nắng chói lọi của mặt trời. Chung quanh họ là núi đồi uốn lượn và thung lũng xanh tươi, lấm tấm điểm hoa, có tiếng ríu rít véo von của bao con chim  kèm với tiếng vo ve của cơ man nào là sâu bọ, say sưa trong buổi sớm mai. Trọn ngày dài, cho dù mặt trời  chiếu hừng hực tuôn từ đỉnh đồi, con đường của hai kẻ lữ hành dẫn ngang qua vùng râm mát, giữa hai triền núi có cây, mát và ẩm do nhiều dòng suối nhỏ chẩy. Tim họ hân hoan và hòa hợp khi sánh bước cạnh nhau, phơi phới trong cơn gió nhẹ nhàng thổi qua thung lũng, làm tâm hồn mở rộng tới mức ngất ngây. Antonius nghĩ thầm khi cất bước.

– Hôm nay ta phải chơi trò vừa khám phá nhiều hơn hôm qua, để ý xem ảnh hưởng của nó đối với bạn đồng hành khi chúng ta cùng đi.

Thành ra thỉnh thoảng anh rẽ vào một trong những cánh đồng cỏ, để hái cho cô một bông hoa đặc biệt mà anh bắt gặp đứng giữa rừng hoa nở rộ, tạo ra cảnh sắc lạ lùng trong thảm hoa lan ra trên cỏ. Rồi anh đưa hoa cho cô, ngắm nhìn sự biểu lộ con đôi mắt mầu hạt dẻ của cô khi cô đón nhận hoa từ tay anh. Khi dò xét cô, mắt anh dịu xuống với sự ngọt ngào của tình thân ái, anh nhủ thầm.

– Bao nhiều năm ta đã sống mà  không học được chuyện thật giản dị, là cho ra một phần của tim mình với bàn tay của mình; bởi cho dù tụ họp bạn bè lại xung quanh, đãi đằng ăn uống, rượu thượng hạng, nhưng ta làm vậy  không phải vì niềm vui của việc cho ra, mà  chỉ  để ta vui thích vì có họ chung quanh, và giải trí với lời đùa cợt nhảm nhí. Chẳng lạ gì ta hóa chán chường với sự huyên náo và ngu dại, thấy nó không để lại niềm vui thú nào trong tim, mà chỉ là phản ứng với sự khô khan  không sao chịu được, thúc đẩy ta có thêm, để làm ta có thể chìm đắm và quên phản ứng đó với quá độ hơn nữa.

Khi chiều tới và vầng dương đỏ ối chìm khuất dần xuống biển ngoài xa, cuối cùng họ tới đích của ngày hôm ấy là một ngôi làng nép mình dưới chân hai tảng đá lớn mà ông lão hành khất đã tả. Rồi khi đi vào con đường dài như được dặn, dân cư tò mò thắc mắc nhìn hai người; sau khúc đường dài họ đi tới căn nhà chót hết, nằm cách xa một chút những căn nhà khác trong vườn, chung quanh có cây bao bọc. Antonius lấy cây gậy của mình gõ cửa, nó mở ra thấy một người đàn ông điềm tĩnh, phong cách đáng trọng, gương mặt có nét hiền hậu làm người ta cảm nhận ngay trong lòng. Ông nói.

– Xin mời vào, hỡi khách lạ mà  không phải khách lạ, vì tôi đang chờ bạn tới trừ phi tôi lầm và bạn  không phải là lữ khách mà tôi mong đợi ?

Antonius lập tức lấy trong áo linh vật anh được dặn phải đưa ra, nói.

– Ông đoán đúng lắm, như ông có thể khi xem xét dấu hiệu này. Nhưng làm sao ông biết là chúng tôi sẽ tới, vì chắc chắn là  không có người đưa tin nào cỡi ngựa đi trước chúng tôi, và báo cho ông hay lúc chúng tôi đến ?

Nhưng người đàn ông đứng ở cửa chỉ mỉm cười và nói.

– Xin hãy vào nhà trước đã, nghỉ ngơi cho tỉnh và sau đó hỏi chuyện tôi, vì hẳn các bạn đã mệt nhoài sau khi đi bộ chặng đường dài như vậy trong ngày nóng bức mùa hè, và bà nhà tôi đang chờ người bạn đồng hành của bạn (trên hàng hiên ngó ra vườn), sẵn sàng đưa cô về phòng của cô và xem có cần điều chi, cũng như tôi xin được phục vụ bạn.

Tối hôm ấy, sau khi hai người đã nghỉ ngơi lại sức và dùng bữa cùng hai vợ chồng chủ nhân tên Aristion và Portia, khéo léo chìu đãi khách cũng như là có diện mạo đẹp đẽ; Aristion đưa hai người khách vào một phòng khác, mời họ ngồi còn ông ngồi xuống  đối diện. Ông quay sang Antonius với nụ cười hiền lành và nói. 

– Vậy ra anh đang đi tìm Minh Triết bí truyền, và các Chân Sư Minh Triết đã chỉ đường cho anh đến tôi để tôi có thể cho anh lần chứng đạo đầu tiên ?

Antonius đáp.

– Tôi biết rất ít về các Chân Sư mà ông nói, chỉ có hiểu biết nhờ đọc qua vài quyển sách xưa, và từ một nhà hiền triết giả dạng làm ông lão hành khất, mà sau khi quở trách tôi là phải bỏ việc học vì thực tế mà nói chẳng ích lợi gì, đã gửi tôi đến ông. Nhưng tôi không được phép đi một mình, mà được dặn phải mang theo bạn đồng hành  như ông thấy - để cô có thể chia sẻ hiểu biết nếu như tôi có được; ấy là điều kiện đặt ra và không làm nó thì chắc chắn sẽ thất bại..

Aristion nói.

– Anh làm khá lắm, đã thực hiện được điều kiện đầu của vị gửi anh đi, và do vậy, tôi sẵn sàng và vui lòng đóng vai trò giảng viên cho anh, tới một giai đoạn nào đó, và nếu anh tỏ ra sẵn lòng, sẽ giao anh cho một người khác cao hơn tôi.  

Antonius hỏi.

– Thế ông lão hành khất thực ra  không phải là hành khất, mà là người ông gọi là một đấng cao cả giả dạng ư? Tôi cũng nghĩ như vậy, vì sự hiểu biết của ngài không giống như sự nghèo hèn nơi ngài, và cách nói chuyện làm lộ ngài ra, thay vì dốt nát lại thanh nhã !

Aristion cười và trả lời.

– Anh đoán  không sai đâu, mà cũng chưa hẳn đúng thực vì ông vẫn còn là một đệ tử được thầy của ông gửi đi, sẵn lòng đến cho anh được tỏ tường mà không hoàn toàn do ý riêng của ông. Cũng như ông không phải là người gửi anh tới đây mà là thầy của ông, dùng ông như phát ngôn viên và sứ giả, mà không là gì hơn. Và quả thật tùy theo cách anh tiếp đón ông mà nó cho biết  tim anh có sẵn sàng để nhận sự hiểu biết của nhóm chúng tôi hay không; và nếu anh xua đuổi ông thì anh đã đóng cánh cửa đầu tiên trên đường đạo bằng chính đôi tay của mình, vì quả thật chìa khóa của bước đầu tiên cho mọi sự giác ngộ là niềm tin và óc phân biện,  không có chúng thì  không sao thụ đắc được chi cả.

Sau khi nói xong ông quay sang Cynara và hỏi. 

– Còn cô, cô có sẵn lòng muốn được chỉ dạy giống như bạn của cô? Nếu vậy, xin cho tôi hay đôi điều về cô, vì tôi đã biết một chút về anh bạn theo cách mà vào lúc này chưa tiện nói, nhưng  không biết gì về cô.

Cynara hơi đỏ mặt một chút và nói nhỏ nhẹ.

– Quả thật tôi muốn đi với anh ấy tới bất cứ chỗ nào anh muốn đi, và học cùng với anh điều gì anh có thể học, vì tôi đã hứa như thế; nhưng tôi  không biết ông có sẵn sàng để chỉ dạy tôi khoa học cao cả như thế chăng, vì đời tôi xấu xa, và tôi đi theo con đường xác thịt thay vì tinh thần, làm tình nhân cho người nên nói chung không phải là kẻ thích hợp được ông chỉ dạy.

Aristion mỉm cười nhân hậu với cô và nói.

– Và cô đã yêu thương rất nhiều, anh là mối tình chót của cô, gợi hứng cho cô bỏ lối sống trước và thay vào đó tìm kiếm minh triết, bên cạnh anh ?

Cynara trả lời.

– Tuy tôi yêu thương nhiều người, quả thật tôi yêu thương anh nhiều nhất; và anh  không phải là người sau cùng như ông đoán, mà là người đầu tiên, người tôi không hề quên và nghĩ tới luôn luôn, tuy hai chúng tôi đã chia tay và tôi vui chơi với kẻ khác thay cho anh.

Antonius ngắt lời cô và nói.

– Đúng là chúng ta đã chia tay, như cô cho ông hay, nhưng tôi là người muốn thế mà không phải do lỗi cô. Vì khi tôi chán chường với bạn bè nhậu nhẹt và lối sống ồn ào của tôi, tôi gạt họ đi và bỏ cô cùng với họ, bảo cô rằng tôi không muốn gặp cô nữa. Thế nên tôi mới là người đáng trách mà  không phải cô.

Aristion nhìn cô với vẻ hiền từ, cười và nói.

–  Không, chúng tôi không hề trách móc ai, vì tôi là ai mà trách cứ người chưa hề làm gì bậy đối với tôi? Hơn nữa, tuy lời nói có hơi nhàm một chút, nhưng đúng là kinh nghiệm là thầy tốt nhất, và ai chưa sống chút nào thì không phải là ứng viên thích hợp cho khoa học của linh hồn; vì điều gì chưa hề nếm họ có thể ao ước muốn nếm nó trong tương lai; dù chỉ vì tò mò hơn là lý do nào khác. Và như vậy cho vài người, nền tảng vững chắc nhất cho con đường hiểu biết là sự no ứ mà không phải là thiếu kinh nghiệm, vì chỉ những ai đã tự mình biết ham muốn thì mới hiểu và chấp nhận dục vọng nơi người khác, tức có được lòng kiên nhẫn và thiện cảm, hai điều mà nếu không có sẽ không sao đạt được minh triết và hạnh phúc đúng thực.

‘Vì trong chuyện xấu luôn luôn có ẩn dấu một điều tốt nào đó cho ai biết cách tìm, nên trong cõi của vẻ ngoài này sự phân biệt giữa tốt và xấu chỉ là mức độ hơn là sự khác nhau; ấy là chân lý tinh tế mà chỉ có người khôn ngoan mới biết. Thế nên, thay vì trách mắng cô là đã nếm lạc thú, ngược lại tôi nghĩ cô có hai lợi điểm vì bài học mà cô đã học có thể không sao có được theo cách nào khác.

‘Hơn thế nữa, ai lạnh lùng không si mê, vì thiếu sức lực và sinh lực, thì là người chí nguyện vô dụng trong khoa học của linh hồn, bởi nó đòi hỏi tình cảm, nhiệt tâm và quyền lực thay vì sự yếu ớt và bất lực; vì làm sao một ham muốn thấp có thể được chuyển biến sang ước nguyện cao hơn nếu trước tiên họ không có điều nào hết? Vì cốt yếu của minh triết là sự chuyển hóa điều thấp hơn thành điều cao hơn, và nếu  không có diễn trình này thì tuyệt đối không thể có được việc đạt tới kết quả sau cùng, và thực tế là làm cho nỗ lực chỉ vô ích.

‘Nay, đêm đã khuya và trí não đã mệt mỏi không thể thông hiểu triết lý thiêng liêng và học các bài học, hãy hưởng sự mát mẻ trong vườn, để tâm hồn nghỉ ngơi dưới ánh trăng, vì như bạn thấy qua khung cửa sổ trăng đang lên trên đỉnh đồi, làm tràn lan cảnh vật với ánh sáng tuyệt vời của nó. Ngày mai ta sẽ thảo luận tiếp, mỗi ngày như thế, cho đến khi tới ngày giờ bạn lên đường tìm thầy khác. Từ đây tới đó bạn là khách của tôi và tôi rất vui có bạn lưu lại nơi đây, bao lâu tùy thích.

 

VI

 

Buổi sáng Antonius dậy đúng giờ, lòng nhiều mong đợi với niềm vui bình thản mà anh chưa hề cảm thấy trước đây. Anh nghĩ thầm.

– Nhà này có sự bình an vượt hẳn bất cứ nơi nào ta đã bước vào, có lẽ chỉ trừ nhà của Pallomides bạn ta, căn villa sát biển. Ta vui thích nơi đây quá nên tới lúc rời đi hẳn phải rất buồn. Hơn thế nữa chủ nhân và phu nhân ông tỏa ra chung quanh họ sự an nhiên và nhân từ, làm mới nhìn thấy ngay họ rất dễ thương, khiến ta cảm thấy như đã quen biết họ nhiều năm, không phải chỉ mới gặp vài giờ. Nay ta tự hỏi cặp vợ chồng đầy lòng nhân và khoan hòa này sẽ dạy điều chi, vì ta thấy ông không phải là thầy nghiêm khắc, nghe lời nói chuyện của ông tối qua là biết, và cách thức ông chấp nhận lỗi lầm của ta, thật khác hẳn với lời răn đe nghiêm khắc đọc trong nhiều sách.

Lúc anh đang suy nghĩ như vậy có người giúp việc đi vào phòng và thưa.

– Chủ nhân tôi kính mời ông khi rảnh rang xin ra dùng bữa sáng ngoài vườn, cạnh suối phun.

Nên sau khi chải gỡ đầu tóc, Antonius đi ra vườn như được dặn, và dùng bữa sáng cùng với Aristion, vợ ông và Cynara, dưới bóng cây, có tiếng nước róc rách của suối phun du dương tạo thành nền êm dịu cho cuộc chuyện trò của họ, với gió nhẹ làm bầu không khí mát mẻ, hơi nước lấp lánh ngũ sắc mỏng manh. Khi xong bữa Aristion nói.

– Ta sẽ học sáng nay ở cuối vườn trong gian nhà nhỏ, giữa những cây thông. Tôi sẽ chờ hai bạn ở đó một tiếng nữa, khi làm xong những việc khác của tôi.

Trong khoảng thời gian đó, Antonius cùng Cynara thơ thẩn dạo chơi, đi ra khỏi vườn tới lưng đồi, Antonius nghĩ.

– Trông đỉnh núi tuyết phủ mà ngày kia ta phải đến thật khó lên và xa xôi, mà ta cũng nghi ngại chưa biết mình sẽ lên được hay  không. Nay đến gần hơn nó lại có vẻ xa hơn nữa thay vì phải là ngược lại, và từ đây nhìn trọn hình dạng ngọn núi trông thật đáng sợ so với khi nhìn nó ở chỗ của ta.

Anh quay sang Cynara và nói.

– Vấn đề là đôi chân nhỏ bé của cô làm sao leo được ngọn núi xa lắc kia, nó làm tôi khó nghĩ, trừ phi ta học được cách thần diệu nào để đi, bất chấp luật thiên nhiên, nhờ gió mang chúng ta trên đôi cánh của nó vượt lên  không trung tuyết giá.

Cynara ngước nhìn anh và mỉm cười như người không lo lắng gì về tương lai, hài lòng chờ đợi  không thắc mắc. Cô nói.

– Hôm nay đẹp đẽ quá vậy đừng làm mất vui với ái ngại cho ngày mai, và tại sao làm con tim thanh thoát bị trì xuống vì nỗi sợ hãi có thể chỉ hão huyền không là gì cả, không có thực chút nào ?

Antonius cười to và khen ngợi đáp.

– Chưa chi cô đã có cách nói của người khôn ngoan, làm như có được triết lý tự nhiên không phải ra công học, như con chim biết hót, và tôi nghĩ Aristion nhiều phần sẽ thấy cô là học trò giỏi hơn tôi bất kể tôi đọc sách thế nào, nên nếu tôi không cố gắng chắc chắn cô sẽ vượt qua mặt tôi và tới đích trước. Nhưng nay ta phải đi tới gian nhà nhỏ để gặp thầy, tôi nghĩ cũng gần tới giờ và để ông phải chờ thật có lỗi và  không phải phép chút nào, ông đã tiếp đãi ta thật ân cần mà  không đòi hỏi có điều chi đáp lại.

Khi đi tới khúc quanh của vườn thấy được gian nhà, họ thấy hình dạng của Aristion bước ngang qua bãi cỏ. Ông chào hai người với một nụ cười, mời họ ngồi xuống băng ghế đá giữa hai cây cột chống mái vòm, có dây hoa hồng leo chung quanh nở rộ. Aristion ngồi đối diện họ ở phía bên kia trên một băng đá khác, ngẫm nghĩ một lúc trước khi nói, và mở lời chậm rãi.

– Dù ta có thể hưởng mọi lạc thú ở đời, gạt bỏ những bất tiện và phản ứng của chúng, nhưng sự vui thú ấy không so sánh bằng một phần ngàn với niềm Hoan Lạc có được khi ta thông hiểu Khoa học của Linh hồn, vì Khoa học ấy là nghệ thuật đầu mối sinh ra mọi Hoan Lạc. Nó ở trong lòng của con người mà  không phải ở ngoài. Thực thế, giống như niềm vui đến từ bên ngoài có điều kiện, trọn Hoan Lạc đến từ bên trong vô điều kiện. Nên vì thế hằng có đó bất kể ta biết hay  không.

‘Mà ngay cả niềm vui tôi nói đến từ bên ngoài, chỉ là vậy về hình dạng mà không phải có trong thực tại, vì không tiền của, đất đai, thức ăn ngon, y phục hào nhoáng nào tự chúng chứa đựng niềm vui, mà chỉ dùng để thu hút một phần rất nhỏ của niềm vui bất tận tiềm ẩn trong linh hồn của mọi vật.

‘Chuyện không thể khác hơn vì với người này y phục rực rỡ làm họ hân hoan nhưng người kia  không cảm thấy vậy; người sau thích thú với việc sở hữu nhiều đồ vật mà điều ấy  không làm người thứ ba vui; người này thích ăn ngon tuy nhiên người thứ tư không như thế, và chuyện tiếp tục hoài không ngưng. Vì nếu sự vui thú nằm bên trong những điều này thay vì trong con người, sự thực sẽ là không có khác biệt về ưa thích mà giống nhau, ai cũng hân hoan như ai. Không, đối tượng của ngũ quan không gì khác hơn là những ống sáo, và cái Trí là người chơi, niềm Vui là ngọn gió sinh ra âm thanh. Thực thế, người chơi lùa gió vào ống sậy bởi tự nó không thể vào, nếu không có kỹ năng và hơi của người thổi, nhạc cụ không thể phát ra âm thanh và hóa vô dụng như một hòn đá.

Tới đây Aristion ngưng một lát, nhìn dò hỏi hai học trò như để xem chắc là họ hiểu, rồi ông tiếp tục.

– Nay, hãy biết rằng Khoa học Minh triết là khiến cái trí làm một với niềm vui vô điều kiện nằm ở nội tâm, và đó là Thực Tại đối nghịch với Ảo Ảnh; và chẳng những với niềm vui vô điều kiện, mà luôn cả bạn cùng với nó là Mỹ Lệ vô điều kiện, và Tình Thương vô điều kiện, nếu  không có hai điều sau thì niềm vui toàn hảo không thể nào có được. Nhưng để được vậy, ta phải dùng ý chí thanh lọc cái trí hết mọi cặn bã, như hạt sương mai phải sạch hết bụi mới có thể phản chiếu được mặt trời.

‘Hãy xem Linh hồn tựa như mặt trời của niềm vui bất tận, và cái trí được thanh tẩy phản chiếu nó, tuy thí dụ quả thật sơ sài và chỉ là nỗ lực tạm bợ để làm bạn hiểu được chân lý. Cái trí phải tràn ngập niềm vui của linh hồn, và mỗi cảm xúc đối nghịch với niềm vui không thể xóa đó bị ý chí loại bỏ ra, tựa như bụi trên gương được tay người lau chùi xóa sạch. Hạt bụi trên gương của trí não thì  không gì khác hơn là những tật xấu và tình cảm của con người làm buồn rầu, điều chỉ là ảo ảnh mà trong thực tại không có buồn rầu nào, tuy nó có vẻ như vậy do chính ảo ảnh ấy. Bởi sự buồn rầu có gì khác hơn là việc thiếu vắng niềm vui, như bóng tối không gì khác hơn là sự thiếu vắng ánh sáng, khi cửa đóng ngăn chặn mặt trời mà vật sau hằng chói lọi bên ngoài ?

‘Thế nên hãy biết rằng giống như ai mở cánh cửa phòng mình để đón nhận ánh sáng mặt trời, xua tan hết bóng tối, thì ai mở cánh cửa của trí mình với niềm vui của linh hồn, xua tan hết mọi phiền não, nó rơi rụng khỏi anh dễ dàng như nước rớt từ lông trên lưng chim thiên nga, hay như người lớn gạt bỏ nỗi lo sợ của tuổi thơ. Bởi giống như  không một vật gì, dù thế nào đi nữa, tự nó có niềm vui thì không một vật hay chuỗi biến cố gì, dù thế nào đi nữa, tự nó có sự buồn rầu; và hãy biết rằng điều này là bài học đầu tiên và giá trị nhất trong tất cả các bài học, giải trừ mọi ảo ảnh cho người, và cuối cùng làm họ được giải thoát.

Tới đây Aristion mỉm cười thân ái với hai học trò của ông, đứng lên khỏi ghế, nói.

– Vậy là đủ triết lý cho ngày hôm nay. Tuy ông thầy luôn sẵn sàng chỉ dạy, nhưng học trò dễ bị mệt mỏi, học không vô. Hơn nữa ông có những bổn phận khác không được quên lãng và phải làm tròn, nên xin rời hai bạn và để hai bạn được tự do.

Nói xong Aristion đi ra, và chỉ gặp lại hai người vào giờ ăn tối. Theo lời khuyên của vợ ông, Antonius và Cynara đi dạo trong rừng kế bên, rất đỗi hài lòng, lắng nghe tiếng róc rách của suối và tiếng hát của chim, ngẫm nghĩ lại tất cả những điều đã học, tự hỏi ngày mai có bài học mới nào.

Và rồi vào cùng giờ như ngày hôm trước, ba người lại gặp nhau trong gian phòng nhỏ giữa những cây thông. Khi đã ngồi yên chỗ, Aristion mỉm cười với họ, mắt long lanh có chút nghi ngờ và bắt đầu nói.

– Khi xưa có một con ngỗng sống với bầy ở nông trại trên sườn đồi, có cuộc đời đơn điệu như những con ngỗng khác, đi lạch bạch tới lui và kêu quang quác không ngưng, thêm vào sự chộn rộn ồn ào của sân trại. Chủ nó là người không hài lòng với việc chỉ làm sinh sôi nhiều thú vật, mà còn thấy cần phải sinh ra nhiều con cái. Những trẻ này chạy chơi trong sân bất kể giờ nào trong ngày, gây huyên náo không kém gì loài vật, luôn nghĩ ra trò phá phách mới mà chúng có thể làm, và tìm cớ để làm ồn hơn nữa.

Ngày kia, trẻ lớn nhất là anh cả nói với các em.

– Anh mới học được từ bạn học ở trường một trò chơi với con ngỗng kia, chẳng cần gì khác ngoài viên phấn để vẽ vòng tròn trên đất; nếu làm vậy và đặt con ngỗng vào giữa, nó sẽ đứng một chỗ, tưởng rằng bị giam và xem nó làm trò rất vui.

‘Nói xong cậu móc trong túi ra một viên phấn, lấy nó vẽ một vòng tròn lớn trên sân, cùng lúc đó kêu các em trai đi bắt con ngỗng và đặt nó vào giữa vòng tròn. Làm xong thì chuyện diễn ra y như đã nói, là con ngỗng khờ khạo đi vòng quanh chỗ giam giữ tưởng tượng, làm như  không sao tìm được lối ra. Nó tự nghĩ.

– Xui xẻo chưa, mình bị nhốt trong vòng mà mấy đứa trẻ ranh này làm ra, mình không còn có thể đi quanh sân tìm thức ăn, không chừng mình bị để cho bị đói, phải chết đáng tội như vầy, còn lũ trẻ cầm tù thì đứng nhìn, chế nhạo.

‘Nên con ngỗng la quang quác, vỗ cánh phành phạch loạn xạ, than vãn việc bị giam cầm mà không phút nào ý thức là nó được tự do.

Aristion ngưng chốt lát và mỉm cười, rồi nói chậm rãi.

– Nay hãy biết rằng con ngỗng ấy không gì khác hơn là hình ảnh của con người, bị huyễn hoặc do vô minh, bị các nỗi lo sợ xúm vào khuấy phá mà chỉ thuần là tưởng tượng và tương đối, không có thực chút nào trong thực tại. Vì cũng như trong thực tại con ngỗng bị mê muội đó có hoàn toàn tự do, bất cứ lúc nào cũng có thể bước ra khỏi vòng rào tưởng tượng, thì nhân loại trong thực tại hằng được hạnh phúc, chỉ cần ý thức hạnh phúc của mình để trở thành điều mà thực ra họ đã là.

‘Vì những nỗi buồn rầu của họ là ảo ảnh nhỏ hoàn toàn sinh ra từ ảo ảnh lớn hơn, dễ bị loại trừ khi nhận ra chân lý, vì chân lý và ảo ảnh không thể hiện hữu cùng một lúc, chẳng khác nào nước và lửa không thể hiện diện cùng một nơi. Vì hãy biết rằng xưa kia có một người đàn bà nhút nhát, ban đêm đi bộ trên con đường vắng vẻ, thoáng thấy một người đàn ông đứng bất động bên lề đường. Cô kinh hãi rụng rời nhưng khi đến gần khám phá thấy đó chỉ là một cái cây, ảo ảnh về người đàn ông biến mất cùng với nỗi sợ hãi của cô. Điều sau cũng như là người đàn ông đều là dựa trên ảo ảnh.

VII

Nay, như tôi nói ngày hôm qua, cách loại trừ ảo ảnh là làm cho cái trí thành là một với chân lý, là tinh túy của sự an lạc, bởi lý thuyết mà  không có thực hành thì  không ích lợi gì, tựa như kêu to Nghệ Thuật ! Nghệ Thuật ! thì cũng  không ích lợi gì cho việc vẽ một bức tranh. Thế thì khoa học của linh hồn gồm có một điều trong nhiều điều khác, là tập định trí, nhờ vậy các lao chao của cái trí được kềm giữ lại,  không còn được phép bay nhẩy như khỉ tới lui lung tung từ chuyện này sang chuyện kia. Cái trí giống như hồ nước có vô số sóng nước bị dục vọng và chuyện bâng quơ của cái trí vẩn vơ gợi nên; bao lâu mà những sóng này chưa được làm yên thì  không sao thấy được đáy hồ phẳng phiu là linh hồn.

Và rồi Aristion đứng lên khỏi ghế, nói.

– Nhưng vậy là đủ cho hôm nay, và ngày mai vào cùng giờ, chúng ta sẽ tiếp tục bài học, còn trong lúc này xin hãy giải trí cách nào tùy thích.

Rồi ông lui vào nhà.

 

VIII

Ngày hôm sau ba người trở lại gian phòng nhỏ giữa các rặng thông lần thứ ba, sau khi họ đã an vị Aristion mỉm cười hiền hậu với hai học trò và nói.

– Mọi đức hạnh khó mà đến cho ai chưa đồng hóa mình với hạnh phúc vô điều kiện, và trước tiên đi tìm chuyện tinh thần; vì giống như chỉ những ai có sức khỏe hoàn toàn mới không cảm thấy mệt mỏi khi vận động, thì ai có hạnh phúc vô điều kiện  không thấy phải cố công chút nào trong việc thực hành đức tính. Thế nên người khôn ngoan  không ngừng suy gẫm về sự an lạc của linh hồn, dùng ý chí tạo cho mình hằng có sự an lạc của linh hồn. Khi làm vậy, mọi hành động  không ích kỷ và cao thượng tự chúng trở thành niềm vui, và  không hề là điều khó nhọc. Ngược lại, kẻ dại khờ  không suy gẫm về sự an lạc của linh hồn mà về sự vui thú của cảm quan,  không ngừng than vãn, nói.

– Tội cho ta, trở thành đức hạnh khó biết bao, và sống mà  không có một chút tật xấu để thêm hương vị cho đời thì chán biết mấy, làm ta cảm thấy tẻ ngắt với sự nhạt nhẽo hết sức của nó và sự nghèo nàn hương vị.

‘Và rồi họ đi tìm cách chấm dứt  sự tẻ ngắt ấy nhưng  không hề tìm ra, bởi phương tiện nằm ngay trong lòng họ,  không ở chỗ nào bên ngoài. Cũng thế, ai nói như sau cũng  không kém phần khờ dại.

– Tôi sẽ tạo đức hạnh bằng cách ngăn chận hết mọi tật xấu của tôi, và làm cho mình trở thành như gỗ đá,  không cảm một việc gì và do đó không thể làm hại; và nếu tôi  không đạt được hạnh phúc gì trong đời này ít nhất tôi sẽ có được nó trong đời sau, và như vậy sẽ có được phần thưởng cho mình.

Aristion ngưng chốc lát để suy nghĩ, rồi nói tiếp.

– Hãy biết rằng có hai cách để loại trừ tật xấu, một cách đúng và một cách sai, một cách chậm và  không chắc, cách kia mau lẹ và chắc chắn; vì tựa như y sĩ khờ dại tìm hiểu bệnh tật để mang lại sức khỏe, y sĩ khôn ngoan học về sức khỏe để làm tiêu tán bệnh tật, nói với bệnh nhân.

– Hãy tạo điều kiện để có sức khỏe, và bệnh tật tự nó sẽ tránh khỏi bạn.

‘Và nếu chuyện đúng với thân xác thì tương tự vậy, nó cũng đúng với tâm trí, vốn đầy bệnh tật như ghét bỏ, ganh tị, ưa nhục dục, lòng giận dữ và những bướu khác,  không ngừng gây đau đớn làm ta  không lúc nào bớt đau.

Rồi bệnh nhân hỏi.

– Làm sao tôi loại bỏ được những điều tệ hại đang hành hạ và khiến tôi  không có chút bình an ?

Y sĩ của tâm hồn dưới dạng giáo sĩ đáp.

– Hãy giết chúng bằng độc chất để chúng chết đi và  không còn phá rối bạn nữa.

Thế thì bệnh nhân tìm cách giết chúng, có khi thành công sau nỗ lực lớn lao, có khi không thành công chút nào. Khi họ chết đi, vùng vẫy dẫy dụa mà chết, vào lúc cuối chập chờn như ánh nến sắp tắt, họ tự bảo mình.

– Nay ta đã dập tắt mọi nhược điểm của mình, nhưng  không cảm thấy có hạnh phúc hơn, mà làm vậy đau khổ  không sao chịu được,  không đáng với công khó chút nào. Chắc chắn phải có gì đó sai lạc, vì cảm thấy một chút lòng ghét bỏ hay ganh tị hay có đam mê thì  không phải là bớt vô vị hơn là  không cảm thấy chuyện gì sao ?

Ngẫu nhiên có y sĩ khôn ngoan của tâm hồn gặp anh và nói. 

– Bạn này, bạn đã cố công chữa bệnh bằng cách học về bệnh tật thay vì học về sức khỏe và làm tròn những điều kiện để có sức khỏe, thành ra cảnh ngộ thứ hai của bạn không khá hơn mấy cảnh ngộ thứ nhất, vì bây giờ bạn  không có bệnh tật hay sức khỏe, mà có một điều gì đó đứng giữa hai chuyện này, hết sức tiêu cực và  không đâu ra đâu, như một thân xác  không có linh hồn. Vì tuy bạn đã loại trừ điều ác, điều Thiện  không có đó để thay chỗ chúng, cũng như hạnh phúc  không có đó để thay chỗ cho đau khổ  của bạn, và chỉ có điều  không xấu cũng  không tốt,  không phải đau khổ cũng  không phải hạnh phúc, chán ngắt và  không có gì thêm.

‘Không, trọn cách làm của bạn sai lầm, vì bạn đã bắt đầu từ khởi điểm sai của chuyện, tiêu diệt điều ác thay vì tạo nên điều thiện; vì  không giống như những chuyện khác, tinh thần bắt đầu từ trên cao mà  không phải từ dưới đáy, và hạnh phúc thuần khiết nhất chỉ tìm thấy được trong không khí trong trẻo nhất của vòm trời xanh, và tâm trí bạn phải như cánh chim vút  cao trong đó, thay vì trong không khí mờ mịt của khu nhà tồi tàn. Và nếu chuyện là vậy đối với không khí, thì nó cũng y thế với đức hạnh và hạnh phúc.

‘Hãy biết rằng người ta chỉ có thể đẩy  không khí xấu trong phổi ra bằng cách làm đầy phổi với không khí trong sạch, mà không phải bằng cách làm phổi  không có chút  không khí nào như bạn đã làm theo cách nói ví von, và khi làm vậy hóa ra bị ngộp thở gần chết. Vì thế như tôi đã nói, cách duy nhất để loại bỏ sầu não trong tâm hồn là gạt nó ra bằng cách  không ngừng trụ tâm trí vào Hạnh phúc, cách loại trừ lòng ghét bỏ là suy gẫm về Tình thương, và điều ác với điều lành, tật xấu với đức hạnh; vì quả thật yêu mến điều lành thì tốt hơn là chỉ ghét bỏ điều ác, bởi lòng ghét bỏ dưới bất cứ hình thức nào, tự nó là một điều ác.

‘Nay bài học của chúng ta đã xong, xin hẹn sang ngày mai, phần còn lại trong ngày xin hai bạn vui chơi tùy thích.’

Nói xong Aristion đứng dậy mỉm cười, đi ngang qua vườn ra khỏi cổng.

 

IX

Sang ngày kế ba người gặp nhau cho bài học thứ tư và là bài chót, trong gian phòng nhỏ giữa các rặng thông. Aristion chào họ với nụ cười thường lệ, và khi mọi người đã yên chỗ, ông bắt đầu.

– Ai muốn đạt tới minh triết phải học cách trưởng thành ra khỏi tuổi thơ và thành người lớn, bởi đa số nhân loại vẫn còn là trẻ con, tuy họ cho rằng mình là người lớn. Đặc tính của trẻ con là có những điều ưa thích và không ưa thích, than vãn điều không đáng, và có tánh hân hoan với điều  không đáng hân hoan chút nào. Tuy vậy, như người lớn mỉm cười khoan dung với tính trẻ con của trẻ nhỏ, thì nhà hiền triết  cũng mỉm cười khoan dung với tính trẻ con của Nhân loại, vì đa số chỉ là trẻ con to lớn trá hình, hân hoan và than vãn về những cảnh ngộ không đáng làm như thế này hay kia. Như ai đó tức giận vì điều ác của người khác và nói.

– Hắn ta và điều xấu hắn làm đáng bị nguyền rủa, để cho hắn cút đi, tôi rất chán ghét sự điên rồ của hắn,

‘mà quên rằng sự giận dữ và lời của mình  không là gì hơn sự điên rồ, và họ chỉ thêm sự điên rồ vào chuyện điên rồ, và nó chẳng là gì khác hơn tính trẻ con. Rồi người khác than vãn là đồ trang sức rẻ tiền bị mất, nói.

– Tội cho tôi đã bị mất đồ trang sức, nay  không còn trang điểm làm đẹp cho mình được nữa.

‘Mà như thế cũng là có tính trẻ con, vì nói cho cùng thì đồ trang sức rẻ tiền nơi không phải tương đương như đồ chơi nơi trẻ con ư? Người khác nữa lo lắng, ngồi đứng  không yên, bảo.

–Ta nghe thiên hạ nói thế này thế nọ về ta, bảo ta là thế này thế kia, mà những điều họ nói là  không thật, vậy ta hãy trả đũa bằng cách tung tin xấu đáp lại.

‘Mà vậy cũng là có tính trẻ con, bởi làm sao lời chộn rộn của vài con két có thể gây xáo động cho sự an nhiên của  tâm trí ai ngoài tâm trí của một đứa trẻ? Hơn nữa lòng tức giận và mong muốn trả thù  không là gì khác hơn lòng tự ái bị tổn thương, là chuyện của trẻ con ở nhà trẻ hơn là của ở lớp cao. Để nhấn mạnh điều này cho tâm trí bạn, tôi xin kể câu chuyện sau.

‘Khi xưa có một người đã lập gia đình, có bạn mà họ rất quí mến nên trong một lúc đem bạn về ở với mình, đối đãi họ như anh em. Nhưng người vợ của anh rất xinh đẹp nên người bạn sinh lòng thương yêu cô, và khi không thể cưỡng được sự cám dỗ, phạm tội ngoại tình với cô vào một đêm chủ nhân vắng nhà. Lúc nhận thức ra điều mình đã làm, anh cho rằng cách duy nhất để chữa lại là chấm dứt cuộc tình bằng cách bỏ đi luôn. Thế thì khi người chồng trở về, anh bạn đã rời nhà đi xa, gặp cướp, bị lấy hết đồ đạc và bị thủ tiêu, mất hết dấu vết.

‘Nhưng người chồng khi quay về nhà và tình cờ khám phá chuyện gì xẩy ra trong thời gian anh vắng mặt, đâm ra giận dữ, ghen tương và xấu hổ, sinh ra lòng nhất quyết điều mà anh khờ dại tin là anh hùng và trả thù chính đáng. Nên gần như ngay lúc ấy, anh lên đường tìm ‘người bạn’ của mình mà  không bao giờ tìm ra, bởi kẻ ấy đã chết rồi. Vậy thì anh đi tìm cả tuần, kéo dài thành cả tháng, tháng thành năm, làm mình bị phiền muộn đủ bề, nhưng luôn bị một ý tưởng mà anh  không tìm cách gạt khỏi trí mình,  không ngớt thôi thúc cố hơn nữa.

‘Cuối cùng khi chót hết anh thấy rằng trọn việc ruổi dong khắp nước chỉ là vô ích, hậu quả là anh mệt mỏi, đau ốm, và thành già nua, anh quay về nhà vì bao nhiêu tiền của mang theo đã hết sạch và  không còn cách nào khác. Tuy nhiên trong thời gian đó, vợ anh, người mà anh bỏ để ra đi,  không hề có thư từ liên lạc, thấy nhân tình bỏ cô và bị chồng ruồng rẫy, cô bị giằng co giữa lòng sầu khổ và hối hận, bao nỗi niềm hòa chung làm cô phát bệnh, đau ốm rồi qua đời. Thế thì khi người chồng trở về, anh bước vào nhà hương tàn khói lạnh, mạng nhện giăng đầy, rêu phong mục nát; bởi vợ anh chết đã bao tháng qua, và giáo sĩ đã chôn cô ở nghĩa trang gần đó.

‘Khi thấy chuyện gì xẩy ra, anh chồng tuy  không tội nghiệp vợ nhưng lại rất tội nghiệp mình và sự cô độc của anh, và cho những đau khổ anh tin là đã xẩy tới cho anh. Anh đi tới nhà vị giáo sĩ đã chôn vợ anh, tuôn ra hết những điều phiền não của mình bằng một tràng lời than thở. Nhưng vị giáo sĩ già, sau một lúc lắng nghe, nhìn anh lạnh lùng và nói.

– Anh trẻ con và xấu xa thì thôi ! Phàn nàn về những tai ương và khổ não mà anh đã tự gây cho anh do sự khờ dại và xấu xa của mình, và do lòng khao khát   không sao thỏa nguyện, để làm chuyện  có nghĩ tới cũng  không đáng, lại còn đi lang thang khắp chốn để thực hiện, thì có lợi gì? Bởi chỉ có ai khờ dại hay trẻ con ở nhà trẻ hoàn toàn không có óc phân biện mới so sánh giữa sự đau đớn và phiền nhiễu, bực mình kéo dài nhiều tháng hay nhiều năm với nỗi vui thú rất đáng ngờ cao lắm chỉ kéo dài vài chốc, và ngay cả khi có được, nhiều phần là kéo theo bao năm tháng có đau khổ, rắc rối thêm qua lòng hối hận và hối tiếc  không sao làm dịu. Hơn thế nữa, có ai ngoài kẻ khờ dại hay trẻ con, lại có thể hoàn toàn  không có tư tưởng hay chuyện quan trọng hơn để đi nghĩ ngợi và suy gẫm về một sự vui thú, mà bất cứ ai có óc phân biện ít nhất không thể xem đó là vui thú chút nào.

‘Vì nếu cho dù bạn anh có chiếm được vợ anh đi nữa, hắn không làm vậy để làm anh tức tối, hay cố tình làm tổn thương anh, mà chỉ vì hắn  không thể cưỡng  được; sự kiện này hiển nhiên theo chuyện xẩy ra sau đó, hắn rời nhà anh ngay hôm sau, để tránh khỏi cám dỗ mà hắn  không sao chống cự. Và như vậy xét về mọi mặt, sự khờ dại của anh nặng nề hơn sự khờ dại của hắn, vì với sự lạnh lùng tàn nhẫn anh đã suy tính và hân hoan với việc gây hại kinh khiếp, còn hắn về phần mình  không hề muốn làm tổn thương anh chút nào.

‘Và nay, kết quả của tính trẻ con không tưởng tượng được của anh, theo ý kiến chung và ngốc nghếch của kẻ ngu dốt và không suy xét, mà anh đã bị gạt để cho là điều anh hùng và cao cả, là gì? Đầu tiên, anh đã phí nhiều năm trong đời cho việc tìm kiếm hoàn toàn uổng công, đem vào người bao phiền muộn không vì gì cả; và thứ hai, anh đã mất vợ, cô chết vì sầu não điều có thể dễ dàng được ngăn ngừa bằng sự tha thứ của anh; và thứ ba,  nếu tìm được người bạn hẳn anh sẽ giết họ, và như thế mất tất cả mà hoàn toàn  không đạt được chuyện gì. Hơn thế nữa, tựa như ý định xấu xa của anh ngu ngốc và trẻ con  không cãi được thì ý niệm sinh ra nó cũng tương tự, vì nó chỉ là kết quả của ảo tưởng và tính tự phụ, hai đặc tính thuộc về giai đoạn ấu trĩ hơn là trưởng thành.

Bởi chỉ có người khờ dại  mới nghĩ là được người khác hoàn toàn thương mến họ, mù quáng trọn vẹn với sự khả hữu là có thể mất nó hay một phần của nó trong hoàn cảnh mà họ  không có kiểm soát, như trường hợp của anh và vợ anh. Mà cũng  không có ai ngoại trừ trẻ con và người keo kiệt mới nắm cứng, bám chặt vào một vật, nói. ‘Cái này của tôi, không ai khác được có nó trừ tôi.’

‘Ngoài ra, tình yêu của anh đối với vợ và tình thương của anh đối với bạn đều không thanh khiết mà có nhuộm lòng ích kỷ, và có nét cái tôi thật đáng trách, bằng  không có vậy hẳn anh đã đặt hạnh phúc của họ lên trên hạnh phúc riêng của anh, và nếu  không đủ sức anh hùng hay rộng lượng để chấp nhận mối tình của họ, ít nhất anh cũng sẽ tha thứ nó, vì nói đúng ra nó gây rắc rối ít biết bao cho anh so với việc đi lang thang khắp chốn như anh đã làm. Nên nói cho cùng cách xử sự của anh làm linh hồn anh bị nhơ uế sâu đậm mà chỉ có một đời ăn năn và làm lành, hy sinh mới cứu nó khỏi hậu quả ghê gớm tới mức tột cùng. Ngoài nó ra  không có gì khác có thể tránh được cho anh, vì người ta phải gặt chuyện gì đã gieo.

Tới đây Aristion ngưng một chút, vì đã tới cuối chuyện, rồi ông nói chậm rãi, nhấn mạnh.

– Vì vậy hãy biết rằng tật xấu và nhược điểm của con người không gì khác hơn là tính trẻ con trá hình, và chỉ có huyễn mộng bao phủ họ do vô minh không biết mình khờ dại, và do câu nệ thói đời làm họ tưởng là mình có tư cách, nhưng đó chỉ là tưởng tượng mà  không có tư cách chi hết, như trường hợp có lòng tức giận, ghen ghét và hết các chuyện trả thù, trả đũa. Bởi, như vị giáo sĩ già nói rất đúng, tha thứ sẽ sinh ra ít chuyện hơn là tìm cách trả thù, và chỉ có ai tâm trí hoàn toàn  không có gì quan trọng hơn để nghĩ mới để ý  tới nó.

‘Thế thì, muốn bỏ nhược điểm ta phải nhìn chúng y như chúng là mà không phải như chúng được tưởng tượng, như chuyện hôm qua về thiếu phụ nhìn cái cây mà thoạt tiên cô tưởng là người đàn ông. Nhưng trên hết thẩy, chúng ta phải đồng hóa trí mình với hạnh phúc vô điều kiện trong nội tâm, vì khi làm vậy ta sẽ có sự trưởng thành về tinh thần, làm cho mọi lỗi lầm hóa ra không đáng kể, mờ nhạt xa xôi như tiếng kêu của vài con trừu trong bầy ở nơi xa tít. 

‘Nay tôi đã chỉ dạy hai bạn tất cả những gì tôi được phép, nhân vật kế tiếp chỉ dẫn cho bạn là một ẩn sĩ sống trên đỉnh đồi xa kia ở nơi hẻo lánh của ông giữa vùng cây cối. Ông đang chờ cả hai bạn, nay tôi xin dặn anh, Antonius, là về chỗ ngụ thì có một căn nhà gần đó cho hai bạn tạm trú và có thực phẩm,  vì ông  không có chỗ cho hai bạn trong lều của ông. (Chặng đường dài và những vị thầy ở mỗi chặng chỉ là biểu tượng cho sự phát triển dần dần nơi người chí nguyện.)

‘Tuy nhiên, hãy ở lại cho tới ngày mai hay bao lâu mà bạn muốn, vì chặng đường dài hơn là khi nhìn, bạn phải mất trọn ngày mới tới chỗ cho dù khởi hành thật sớm.

Rồi Aristion đứng dậy, mỉm cười và nói.

–Ta sẽ gặp nhau chiều nay, mong hai bạn được bình an.

Đoạn ông băng ngang qua vườn ra khỏi cổng.

X

Ngày hôm sau Antonius và Cynara thức giấc rất sớm, chào từ giã chủ nhân và vợ ông với lòng luyến tiếc, đi tiếp chặng đường kế vì đã được Aristion chỉ. Trong nhiều giờ họ rảo bước trên đường, dọc theo sườn đồi, cho quang cảnh rất xinh đẹp. Bên dưới là một thung lũng rộng có con sông uốn lượn quanh co, xanh như bầu trời bên trên mà hai bên viền bóng những cây bạch dương, làm cho hai ven sông có mầu xanh lục nhạt. Thung lũng cũng rất hữu tình, có làng mạc rải rác đó đây, và cũng có trên sườn đồi của ngọn núi lớn đối diện, chen lẫn vài khu rừng và đồng cỏ có đàn gia súc đang gặm cỏ, chuông đeo cổ của chúng kêu leng keng theo gió reo vang trong thung lũng. Thỉnh thoảng có tiếng sáo của mục đồng nghe thoảng xa xa không biết từ đâu, khi khác có vẳng lên giọng hò của một người chèo thuyền hân hoan, chậm rãi bơi thuyền trên sông.

Tới một khúc quanh có con bò đơn độc nằm soài trên cỏ, Antonius nói.

– Tôi tự hỏi con bò kia có thấy hết cảnh đẹp đẽ này không, vì tuy chắc chắn mắt nó giống như mắt chúng ta và như vậy về một mặt những ngọn núi kia, khu rừng và giòng sông bên dưới hẳn phải nhìn y như ta nhìn, dầu thế chúng phải hoàn toàn  không có ý nghĩa gì, hay có ý nghĩa hoàn toàn khác hẳn, ý mà chúng ta  không bao giờ có thể đoán ra. Không phải vẻ mỹ lệ, mầu sắc và nét thi vị bao quanh ta mọi bề sao, mà có một sinh vật có tâm thức, lại hoàn toàn không ý thức những điều này, như con cá không ý thức tất cả những gì ngoài nó ra? Vậy có phải Aristion có lý khi nói, ‘ Không có gì tự nó có Mỹ lệ hay Hạnh phúc, mà chỉ nhằm mang ra một phần của mỹ lệ và hạnh phúc vô tận tiềm ẩn trong trí, hay nói đúng hơn là linh hồn’ ?

‘Vậy  không nghi ngờ gì là mục tử chui ra từ căn chòi nhỏ xa kia cũng mù tối với trọn vẻ diễm lệ này như con bò; vì tuy anh thấy cùng dốc núi và vòm trời xanh thẫm trên kia, nhưng vẻ thi vị của nó hoàn toàn thiếu vắng trong nhận thức của anh, bởi anh  không có gì trong tâm trí.

Cynara trả lời bỡn cợt.

– Tôi nghĩ anh học thuộc bài quá mau, vậy càng tốt vì ngay cả con bò cũng có thể dạy anh đôi điều bất kể việc đọc sách và học hỏi lâu năm của anh; nhưng nói về mục tử xa kia, ai biết anh ta đã học được sự khôn ngoan gì khi tiếp xúc với thiên nhiên,  không chừng anh là nhà hiền triết giả dạng, như ông lão hành khất của anh, người mà chúng ta có món nợ khó hoàn. Vậy chúng ta chớ nên mau mắn phê bình ai thấp kém hơn, vì bề ngoài dễ dàng dối gạt, nhất là, nói ra thấy lạ, không biết tại sao tôi có cảm tình với mục tử xa kia, ngay cả việc anh ta dơ bẩn, xấu xí, nói chung không ưa nhìn; nên tôi không muốn nghe anh nói rằng anh ta không có thi vị trong tâm.

Antonius cười và đáp.

– Coi bộ cô cũng học được từ những chỉ dạy vừa rồi, vì chắc chắn cô cảm thấy một chút Tình thương vô điều kiện trong tim cho anh chàng kia, người  không có lợi điểm nào để ta sinh ra tình cảm riêng tư hơn với anh; và như tôi đã học đôi điều từ con bò, cô đã học đôi điều từ chủ của nó, vậy ta huề nhau.

Cynara cười trả lại, nhưng đáp.

– Không hẳn, vì nếu tình thương của tôi thực sự vô điều kiện, anh chàng kia hẳn  không có gì liên hệ với nó, và tôi hẳn ý thức nó luôn luôn, ngay cả trước khi tôi nhìn thấy anh ta. Nay tôi xin kể anh nghe một chuyện bí mật, anh tin hay  không thì tùy, nhưng ai có tình thương trong tim phải tuôn rải khắp chung quanh, vì ấy là bản chất của tình thương chân thực, tức giống như mặt trời chiếu rạng mọi điều, xấu cũng như đẹp. Cũng như tình thương nào không làm giống vậy thì  không phải là tình thương chân thực, mà chỉ là lòng ích kỷ giả dạng lấy tên của nó.

Antonius mỉm cười tán đồng, bảo.

– Hỡi cô triết gia nhỏ bé, cô xứng đáng  không gọi tên trang trọng như thế, và  không phải tôi có nói với cô là tôi sẽ học được nhiều điều từ miệng cô ư, nó như phát ngôn cho trực giác cao tột của cô.

Rồi hai người cùng nói chuyện về Aristion và bài dạy của ông, vẻ an nhiên tự tại, sức thu hút của ông, cùng lúc tự hỏi vị thầy sắp tới của họ sẽ như thế nào, và ông sẽ có những bài học lạ lùng nào cho họ. Hai người đi trọn ngày, chỉ nghỉ chân một lần để dùng bữa trong một ngôi làng nhỏ nằm trên đầu một khe, dưới sâu có thác nước ào ào rơi, cuồn cuộn hung hăng tuôn xuống con sông rộng bên dưới. 

Sau bữa ăn, họ bắt buộc phải đi xuống khe này, giữa những tảng đá lớn và nhiều hòn đá rêu phủ đầy, có bụi nước văng lên mát lạnh. Hai người không thể trò chuyện vì tiếng nước chẩy vang dội làm át giọng họ trong tiếng nhạc của nước. Tới chiều, họ đến thung lũng cạnh con sông rộng, có thiên nga trắng bơi lượn dưới bóng những cây trắc bách diệp và cây bạch dương. Trước mặt họ là ngọn đồi mà hai người phải đi lên để tới nơi đã định, ngọn đồi có rừng cây bao phủ.

Sau cuộc leo dốc chậm chạp và khó khăn, họ lên tới đỉnh lúc hoàng hôn, thấy một căn nhà nhỏ nép mình giữa khóm cây. Ở đó họ hỏi đường một bà lão đứng  ở ngạch cửa. Để trả lời, bà hỏi lạ lùng.

– Phải hai vị là người mà ẩn sĩ Petrius đang chờ? Nếu vậy thì đây là chỗ cho hai người tạm cư, rồi ông sẽ gặp hai người vào sáng mai.

Antonius xác nhận, tự nghĩ bụng.

– Làm như những người này biết hết mọi điều, họ biết chuyện người khác bằng phép thuật gì vậy ?

Nhưng anh nói với bà.

– Đúng vậy, thưa bà, xin bà cho chúng tôi thức ăn và nước để dùng, vì chúng tôi đã qua đoạn đường dài và rất mệt mỏi.

Sáng hôm sau họ dậy sớm, và sau khi rửa mặt, ăn sáng, họ theo lời bà lão chỉ, đi vài trăm bước xuống bên phải ngọn đồi nơi khu rừng đặc biệt dầy đặc, lối mòn bị che phủ khó mà nhận ra. Rồi theo lời chỉ dẫn của bà, lòng đầy mong mỏi, hăng hái nhưng phải là không có lẫn chút e sợ, cuối cùng họ tới một khoảng trống cỏ xanh, có hồ nhỏ nước trong vắt và chòi bằng đá, chung quanh dây dại leo bám đầy xanh um. Trong chòi có ông lão ngồi trầm tĩnh, chòm râu nhọn mầu đen và áo dài trông như y phục nhà tu, tuy mầu áo không u tối mà là mầu xanh đậm đẹp đẽ, đậm hơn mầu trời. Khi thấy hai người tới gần ông đứng dậy và mỉm cười, tiến ra chào hỏi vài câu thân ái khéo léo. Ông nói.

– Lâu lắm rồi ta mới có học trò mới, vì ông thầy sẵn sàng để dậy hơn là trò sẵn sàng học, thế nhưng chúng ta không thể đi tìm trò vì trong Khoa học của chúng ta, qui luật khác với những khoa học khác, và trò không thể được người lớn gửi đến trường, mà phải tự mình đến.

Ông lại mỉm cười, nói.

– Chỗ của ta nghèo hèn nhất, nhưng thảm cỏ cho ghế ngồi êm ái nhất, vậy chúng ta hãy ngồi xuống trong bóng mát của cây cạnh bờ hồ, nơi luôn luôn thơm và mát, do con suối giữa rừng chẩy ra.

Khi họ đã an chỗ, Antonius nhìn vị ẩn sĩ và thưa.

– Thưa ngài, con ngạc nhiên với hạnh phúc xem ra  bất biến và sự an nhiên không phải chỉ riêng của Aristion là người gửi chúng con tới đây, mà luôn cả của ngài, cho dù cô tịch vắng vẻ rất mực và ngài chọn cách sống xa lánh thế gian, gương mặt lại  không có chút khắc khổ nào.

Vị ẩn sĩ cười một chút và trả lời.

– Một triết gia rầu rĩ ! Này anh bạn, quả thật là chữ trái nghĩa và không đáng với danh xưng như thế, vì triết lý có giá trị gì trừ phi nó mang lại cho ta sự bình an?

– Vậy mà, Antonius đáp, con  nghe kể có nhiều triết gia khắc khổ và buồn rầu, xị mặt, có vẻ cô đơn, ghét người, lạc điệu với thế giới.

Vị ẩn sĩ lại cười nhẹ nhàng và đáp.

– Nếu vậy có vẻ như triết gia của bạn chỉ có danh mà  không có thực, vì ai đã ý thức sự sống và vạn vật là một thì không thể có sự cô đơn, ghét người hay  không hài lòng, mà hoàn toàn ngược hẳn lại.  Điều này đưa tới mục đích đầu tiên của triết lý là cho chúng ta tánh thản nhiên thiêng liêng, khiến ta thấy  không đáng kể chút nào việc sống trong hay ngoài thế giới, trong cung điện hay chòi rơm, ở chỗ này hay chỗ khác.

‘Vì hãy biết rằng có hai tánh thản nhiên, một là tánh thản nhiên thiêng liêng sinh ra do hạnh phúc  không thay đổi, và một là tính thản nhiên tầm thường sinh ra do sự tẻ ngắt  không thay đổi; một tính thuộc về nhà hiền triết và tính kia chỉ là cho kẻ nhạo đời. Bởi người trước nói, ‘Ta hạnh phúc quá đỗi nên  không sao cảm thấy buồn rầu’, còn người sau nói, ‘Ta sầu não quá không thể sầu não hơn được nữa, hay cảm được chút vui thú chi’. Như vậy thái độ của một bên là tích cực và bên kia hoàn toàn tiêu cực. Và theo đó triết gia đúng nghĩa vun trồng tánh thản nhiên thiêng liêng, có được bằng cách suy gẫm không ngừng về sự an lạc của linh hồn, là điều mà ta được phép chỉ dạy cho học trò nào sẵn lòng muốn học.

Đoạn Petrius mỉm cười và vuốt râu giây lát, nhìn hai người có thể là đệ tử, người này sang người kia. Rồi đột nhiên gương mặt  ông trở nên nghiêm trang, và ông nói.

– Tuy nhiên có những điều mật truyền trong lúc chỉ dạy  không được phép tiết lộ cho người ngoài, vì ai học tập cần mẫn sẽ thụ đắc quyền năng lớn lao mà nếu rơi vào tay kẻ xấu sẽ thành phương tiện tai hại gây ra tàn phá, và do vậy là hiểm họa cho sự an vui của nhân loại. Nên ta buộc lòng phải có biện pháp để bảo đảm sự cẩn mật nơi ai ta chỉ dạy, vì nếu họ sai lời thì con đường mau lẹ để có hiểu biết sẽ phải đóng lại với họ, không cho có chọn lựa nào khác mà phải đi con đường chậm chạp hơn.

‘Và  không phải chỉ có sự cẩn mật mà phải thêm vào đó niềm tin và lòng khoan dung, vì lòng khoan dung là điều bảo đảm lớn lao cho việc lạm dụng quyền năng nhằm mục đích sai lạc, thành huyễn hoặc vì giống như điều lành. Xưa kia lâu lắm rồi, do lòng tốt bụng  đặt sai chỗ ta nới lỏng qui luật của  môn phái, cho phép một đệ tử có vài quyền năng trước khi anh có lòng khoan dung cần thiết trong tim để dùng chúng đúng đắn. Người đệ tử này có lòng yêu quí rất nhiều một người bạn, cuồng nhiệt muốn họ theo cùng đường hiểu biết như mình, thấy rằng nó mang lại hạnh phúc cho anh. Nhưng người bạn  không muốn chút nào, có câu trả lời giận dữ cho mọi lời nài nỉ của anh, chót hết   không muốn nghe gì nữa. Đệ tử của ta do sự cuồng nhiệt của mình, bảo.

– Nào, bạn mù quáng quá đỗi với  những chuyện chỉ tốt lành cho bạn, nên tôi sẽ dùng quyền năng của mình ép buộc bạn phải thuận theo ý tôi.

‘Nhưng ta biết được chuyện và cấm cửa người đệ tử khờ dại ấy ba năm, bảo anh học hạnh khoan dung trước khi được nhận vào trở lại, bởi ai cuồng tín đều nguy hiểm cho cộng đồng, cũng như là thiếu óc phân biện và sáng suốt. Hãy biết rằng mọi người, bất kể là ai, đi theo con đường thính hợp nhất cho họ và tánh khí cùng đặc tính của mình tới sự hiểu biết, và nỗ lực ép buộc họ đi theo đường mau hơn hoặc trực tiếp hơn  không những là điên rồ mà nhiều phần còn làm họ té ngã.

‘Bởi động lực cho mọi hành động là tìm kiếm hạnh phúc, và sự khác biệt duy nhất giữa thánh nhân với kẻ tội lỗi là người trước đi tìm theo đường thẳng còn người sau theo đường vòng. Vậy mà, chỉ có ai gan dạ và mạnh mẽ mới mong trèo đường dốc đứng lên núi mà  không gặp hiểm nguy, còn kẻ yếu hơn phải theo đường vòng xoắn ốc và dài hơn; thành ra chỉ có ai có tinh thần gan dạ và mạnh mẽ mới mong leo dốc núi đứng để tới hạnh phúc, người yếu hơn phải theo đường chậm hơn, bất cứ đường nào khác sẽ làm họ bị hủy hoại  không tránh được.

Vị ẩn sĩ Petrius ngưng lại nữa, để mắt ông vơ vẩn phút chốc trên nền trời xanh như ngẫm nghĩ, nét mặt nghiêm nghị dãn ra với nụ cười và ông nói.

– Mục tiêu của Khoa học Thiêng liêng là sự chuyển hóa tâm thức bình thường sang tâm thức mà  không có lời để mô tả, chỉ có thể được kinh nghiệm mà  không sao diễn tả được. Mà nói như vậy không có nghĩa là chuyện không thể có và nó  không hiện hữu, như kẻ ba hoa dốt nát muốn ta tin. Vì ai có thể tả sự ngọt ngào của mật cho ai chưa hề nếm mật, hay tình yêu cho ai chưa biết yêu, hay thị giác cho ai sinh ra khiếm thị, dù tất cả những điều này đều có thể được kinh nghiệm? Nhưng để kinh nghiệm nhiều chuyện tầm thường ta phải theo một số điều kiện, vậy muốn kinh nghiệm tâm thức Thượng Đế thì cũng phải theo vài điều kiện.

‘Việc đầu tiên là hiểu biết phải thực hành điều chi, thứ hai là cách thực hành, và thứ ba là việc thực hành, không có ba điều tiên quyết này thì không đạt được gì cả. Nay công việc của ta là làm cho hai bạn rõ những điều này, sáng mai sau lời giải thích ngắn vào cùng giờ, các bạn sẽ thực tập và  xin chúc bạn được may mắn.

(Thực hành ở đây muốn nói tới Yoga, một khoa học mật truyền từ Ấn Độ và lan khắp thế giới).

Antonius và Cynara đoán rằng lời này ngụ ý vị thầy muốn được để yên cho ngài thiền định nên đứng dậy lui ra, dạo rừng một lúc xong quay về chỗ tạm trú. Không khí vùng đồi núi làm họ đói bụng khác thường nên hai người hỏi bà lão coi nhà là có gì cho họ ăn trưa. Nhưng để trả lời bà nhìn như thể chưa hề nghe câu hỏi ấy, và trả lời.

– Hai người còn muốn có gì trên sườn đồi cô quạnh này ngoài bánh mì, sữa, bơ và cheese, bởi già  không có gì ngoại trừ đàn bò xa kia cho già thực phẩm.

(Ai mới tập Yoga được khuyên tránh mọi thực phẩm có tính kích thích. Ngoài ra, sát hại loài vật là chuyện  không hợp với lòng từ bi sâu xa của bậc Đạo sư).

Antonius nhìn Cynara đầy ý nghĩa và nói khi bà lão đã đi xa.

– Có vẻ như sự cực nhọc của chúng ta đã bắt đầu, vì làm sao tôi nuôi được cơ thể với món ăn nghèo nàn và đơn điệu như thế? Tôi chưa hề quen thức ăn nào  không có rượu thịt. Nhưng tôi đoán mình phải tự an ủi với ý nghĩ là có nhiều người chỉ có ít hơn thế để sống, chỉ ăn có bánh mì và nước lã và  không có gì thêm, rồi ai thiếu may mắn lại còn chết đói.

Và Cynara cười rồi đáp.

– Nó giống như anh nói, tuy nhiên, anh có điều an ủi nghèo nàn và chắc chắn là không cao cả và  không chừng chẳng phải là an ủi chi. Bởi làm sao sự đau khổ của người khác có thể là điều an ủi cho mình, đúng ra thì nó phải ngược lại chứ? Ngẫm nghĩ thì có sự an ủi hay hơn và cao thượng hơn. Nếu tôi phải bị thiếu thốn thì cầu Trời là chỉ có mình tôi bị, và người khác được hạnh phúc hoàn toàn không bị đau khổ riêng của tôi.

Antonius cười trả lại và nói.

– Hỡi cô triết gia nhỏ bé, cô thật là mau mắn với lời đáp khôn ngoan và khéo léo, làm xẹp bong bóng những lời giả dối, ngốc nghếch dễ nghe của ai thiếu suy xét, dễ rơi khỏi miệng ta một cách vô ý mà ta  không bận tâm hỏi nó có nghĩa gì, hay có đúng thật chăng. Nhưng nay, với sự sáng suốt mà gây bực mình của cô,  cô đã làm tôi  không có chút an ủi nào, vì sự thiếu thốn ít ỏi của tôi làm tôi nghĩ đến sự thiếu thốn lớn hơn của người khác mà trước đây tôi chưa hề nghĩ tới. Nay cách duy nhất chữa lại điều sai cô đã làm là ta vào rừng nhặt củi và hái dâu dại cùng rau thơm, để may ra thêm cho thực đơn nghèo nàn của ta; cũng là cách để phạt cô là đã thắng được tôi với lý luận của cô.

 

 

 

XI

 

Phần còn lại trong ngày hôm ấy hai lữ khách đi tìm dâu dại, rau rừng và các loại rau thơm cho bữa ăn  không ngon miệng. Sáng hôm sau, trải qua giấc ngủ  không mộng mị và ngon giấc, hai người lại đi tới chòi của vị ẩn sĩ ở phía dưới đồi. Khi chào hai người một cách hiền từ, ông nói.

–  Hôm qua ta nói xa xôi với hai bạn là  mọi sự sống chỉ là một và tâm thức cao nhất là Tâm thức Duy nhất, phân biệt khác hẳn với lòng chia rẽ; điều trước sinh ra sự An Lạc còn điều sau sinh ra đau khổ. Nay hãy biết rằng đó là chân lý, vì như sóng là một với đại dương, sự tách biệt của nó chỉ là danh và hình dạng mà không phải là sự kiện có thực, thế thì mỗi sinh vật là một với Tâm thức Vũ trụ, tuy nói về tên và hình dáng thì nó dường như phân rẽ. Mà không phải sóng chỉ là một với đại dương, hệ quả là nó nối liền với những sóng khác, dù có cá tính riêng của nó,  không có hai làn sóng giống y nhau. Chuyện cũng tương tự với nhân loại, vì tuy mỗi đơn vị tâm thức có cá tính riêng, nó lại nối kết với tất cả những đơn vị khác mà như đã nói, trong việc là tất cả tâm thức là một.

‘Vì lý do này, mỗi lời răn cao cả nhất đều dạy, ‘Hãy thương yêu người bên cạnh và đừng làm hại cho họ’, vì làm hại cho người bên cạnh mình là làm hại chính mình, vì trong biển Tâm thức Vũ trụ có luật Tái Hồi tác động, đó là điều chi con người phóng ra thì cuối cùng sẽ quay trở lại anh theo với luật Nhân và Quả.

Petrius ngưng lại, mỉm cười hỏi.

– Ta nói có rõ  không ?

Cynara trả lời.

– Rõ lắm, thưa thầy, ai mà  không hiểu được vị thầy giúp đỡ trò với thí dụ khéo chọn và giản dị như thế ?

Petrius tiếp tục và nói.

– Mục tiêu của Khoa học Thiêng liêng là nhận thức sự hợp nhất này với trọn Sự Sống để cho như ta có nói là có sự chuyển hóa tâm thức, và cá nhân biết mình hợp nhất với Vũ trụ và đạt được sự An Lạc vô điều kiện tại đây vào phút này, và không phải chỉ trong tương lai như ai dốt nát nói. Trước khi tới đích này, anh phải tỏa ra tình thương trọn vẹn cho vạn vật, mà cùng lúc, nghe có hơi nghịch lý,  giữ cảm xúc ấy trong tâm mình, giữ nó luôn ở đó  không để bay mất.  Bởi việc thực hành không gì sánh được này mở cánh cửa Nhận thức, tuy phương pháp cho kết quả chậm chạp nhưng chắc chắn k kết quả cuối cùng sẽ tới.

‘Nhưng phương pháp mau chóng để đạt sự nhận thức là một bí mật, hay đúng hơn là một chuỗi nhiều sự thực hành bí mật mà ta sẽ tiết lộ vài phần cho các con, tiết lộ càng lúc càng nhiều hơn nếu con tỏ ra xứng đáng, và giữ lại nếu các con tỏ ra ngược lại. Nay hãy về nơi trú ngụ của các con, và trở lại đây gặp ta sáng hôm sau, nhưng trong tương lai hãy tới đây riêng biệt, người này đến cách sau người kia một giờ, và  không tiết lộ cho nhau điều ta dạy trừ phi được phép của ta, bởi làm sao người này mong là người kia  giữ bí mật mà chính họ không thể giữ được? Ngay cả sự cẩn mật là điều đòi hỏi cần một chút luyện tập, là bài tập tốt đẹp cho việc kiểm soát miệng lưỡi, vật luôn luôn sẵn sàng lép nhép khi tốt nhất là nó yên lặng. Nhưng nay, xin chào và gặp lại các con hôm sau, và mong các con được an vui.

 

 

 

XII

 

Vậy thì trong nhiều tuần Antonius và Cynara tập luyện khoa Yoga dưới sự trông nom của Petrius vị ẩn sĩ, chuyên cần theo đuổi việc học buổi sáng, dành thời gian còn lại trong ngày đi dạo rừng và giải trí. Chuyện kỳ lạ là cả hai người bắt đầu thấy trẻ ra và mạnh khỏe hơn, đẹp đẽ hơn. Và Cynara không còn vẻ tàn tạ mà có lại nét thanh xuân, nhưng nét mặt có vẻ chưa hề thấy trước đây, đi thẳng vào tim ai nhìn cô, rồi giọng nói lại có thêm vẻ êm ái, đầy thiện cảm, nhân hậu và tình thương. (Đây không phải là tưởng tượng mà là sự kiện quan sát được, ấy là một số người tập Yoga lấy lại nét trẻ trung của mình.)

Antonius nghĩ thầm.

– Quả thực sự thu hút của Cynara có thể thành một đe dọa cho sự thanh thản tâm hồn của ta, đứng cản đường sự tiến bộ của ta trên đường hiểu biết, vì chắc chắn vị Thầy sẽ không bằng lòng với bất cứ hình thức đam mê nào, và nếu ta chìu theo, sẽ không chỉ dạy nữa, mọi chuyện sẽ hư hết. Mà ta không thể bỏ rơi Cynara để có lại sự bình an của tâm hồn, để cô sống mà không có người bạn đường hay người che chở. Ngoài ra, có vẻ như càng lúc cô càng thương yêu ta nhiều hơn bao giờ hết, ta thà làm bất cứ chuyện gì khác hơn là làm cô đau khổ, sau bao việc cô đã làm cho ta.

Antonius nghĩ ngợi như thế, thắc mắc, suy tính, tự hỏi chung cuộc sẽ ra sao, tuy nhiên không nói gì với Petrius lẫn Cynara.

Buổi chiều kia, sau nhiều ngày đi hết những lối mòn ở gần căn nhà nhỏ, và muốn đi chơi chỗ khác xa hơn để thay đổi, Antonius và Cynara tới một làng nhỏ ở thung lũng cách đó vào dặm đường. Ngày nóng bức, hai người cảm thấy mệt một chút sau cuộc đi bộ nên họ ghé vào quán, muốn ăn tối ở đó và đi về nhà dưới ánh trăng. Họ ngồi trong vườn của quán dùng bữa, trong lúc ăn họ nghe thoáng lời chuyện trò của vài thực khách khác, vẳng ra sau rặng cây che, nên tuy không thấy mặt mà nghe rõ lời. Một người nói.

– A, phải, hắn tập huyền thuật trên kia trong rừng, gạt gẫm ai nhẹ dạ, giả vờ là cho họ những hiểu biết đáng giá.

– Chà, kẻ khác nói, để hắn khống chế họ và sau đó bắt họ làm theo ý mình.

Người thứ ba nói.

– Và đó là tại sao hắn không dám sống trong làng nào mà ở một mình tít trên kia, vì hắn biết rõ là người ta sẽ đuổi hắn đi khỏi chỗ nào đàng hoàng, vì trò phù thủy và việc làm xấu xa.

Người thứ nhất tiếp lời.

– Tôi nghe là hắn thu được một thiếu phụ khác, cầu bơ cầu bất, đến với một gã đàn ông, nhưng tôi biết chắc kết cục sẽ như thế nào, là gã đàn ông sẽ bị tống đi xa, chỉ còn lại thiếu phụ, và khi hắn đã chán chê cô hắn cũng sẽ tống khứ luôn. Chuyện cứ như thế tiếp diễn cho đến ngày sự trả thù sẽ rơi ngập đầu hắn.

– Phải, người thứ  hai nói, chuyện còn thêm là  không phải chỉ có mình hắn làm ác, mà có cả một hội tà đạo như thế, trợ giúp nhau trong việc làm ác độc và đẩy người vô tội tới chỗ diệt vong.

Xong có tiếng chân lào xào đứng dậy và vài câu nữa mà nghe không ra, lúc mấy người khách đi xa dần. Nhưng Antonius và Cynara nhìn nhau, cảm thấy trong tim có lo ngại vô cớ, tuy nó chỉ kéo dài trong một chốc nhưng dù vậy vẫn để lại thoảng qua một mối nghi ngờ sau đó. Khi trên đường về nhà, họ nói cho nhau nghe suy nghĩ của mình, nhưng không hề tỏ ý nghi ngờ tư cách của vị thầy, người mà nay họ thương yếu và tôn kính, vì thấy bằng chứng những chỉ dẫn của ông đã thể hiện trong con người họ.

Tuy vậy sáng hôm sau, dù Cynara không hề nói tiếng nào với vị ẩn sĩ về điều này, nhưng Antonius mở lời về chuyện mà anh nghĩ có thể làm sáng tỏ đôi chút điều anh đã nghe. Anh nói.

– Thưa thầy, mỗi ngày Cynara càng đẹp thêm, con e ngại  là lòng ham muốn ngày xưa của con có thể khơi dậy trở lại, và mạnh thêm vì lần này ngược với lần trước, tình yêu và lòng ái mộ sẽ có đó, hai lực khó mà chế ngự cho dù nên bị chế ngự. Nhưng nếu xẩy ra điều mà con vẫn sợ, con không biết phải theo đường lối nào, và cách hay nhất có phải là con bỏ ra đi. Làm vậy chắc chắn sẽ giải quyết xong khó khăn mà không cách nào khác làm được.

Petrius suy nghĩ một lát và trầm ngâm trả lời.

– Cách ấy luôn luôn là chuyện khả hữu, vì nói chung việc tách biệt nhau là thuốc hay nhất để trừ lòng đam mê, tuy nhiên tại sao ngăn chặn việc mà ai biết là có thể không bao giờ xẩy ra, làm tâm trí tràn ngập những điều sợ hãi tự chúng hoàn toàn vô ích? Không, sợ điều gì là cách dễ nhất làm nó sinh ra, vì trí năng có tính tạo tác, và con người nghĩ điều gì thì sớm hay muộn họ sẽ trở thành điều ấy, và ngược lại, điều gì họ từ chối không nghĩ tới nó chút nào là họ bỏ đói nó, và mầm mống sẽ chết đi vì thiếu chất nuôi dưỡng.

Và Petrius mỉm cười rồi thêm.

– Vậy hãy về nhà và vui vẻ, đừng nghĩ tới chuyện theo cách này hay kia, ấy là lời khuyên hay nhất ta có thể cho con.

Khi Antonius đi về căn nhà nhỏ, anh miên man chìm đắm trong ngõ ngách của bao điều, niềm tin và lòng nghi ngờ đưa anh qua lại như quả lắc, đi từ điểm này sang điểm kia. Vì anh lý luận.

– Nếu thầy mình giả mạo như những người trong vườn nói, thì tại sao ông không nắm ngay cơ hội ta đưa ra cho ông, và đẩy ta đi xa, giữ lại Cynara cho ông; còn mặt khác, tại sao ông còn cho phép ta nghĩ đến chuyện bỏ cô, để cô bơ vơ không nơi nương tựa, thay vì ra lệnh ta phải kềm chế lòng ham muốn nếu không muốn bị trừng phạt ghê gớm, là lệnh mà ông dễ dàng đưa ra ?Sao đi nữa, nghi ngờ ông xem ra là điều thật xấu về phần ta, nếu nhớ tới bao điều ông đã làm cho ta; quả thật bằng chứng của trái là hương vị ngọt ngào của nó, và mọi chuyện liên hệ với sự tập luyện của ta đã xẩy ra y như ông tiên đoán.

Rồi Antonius đâm ra tức giận mình và nghĩ.

– Ta phải chấm dứt nó ngay, và ngày mai thú nhận các mối nghi ngờ của mình, kể hết câu chuyện không chần chờ gì nữa.

Vậy thì hôm sau anh thực hiện ngay ý định của mình, kể lại chuyện xẩy ra khi đi dạo, quán ăn, giọng nói nhục mạ trong vườn và tất cả những gì xẩy ra sau đó. Khi anh kể xong, Petrius nhìn anh với một nụ cười, có thoảng chút thất vọng mà không có gì thêm, tuy nó đi thẳng vào tim Antonius, làm anh hối tiếc, xấu hổ và buồn rầu mà không sự giận dữ, la mắng hay chê trách có thể gợi nên được.

Đoạn Petrius nói.

– Này anh bạn, kẻ dốt nát giải thích cho xong mọi chuyện theo sự thiếu hiểu biết của họ vì không biết gì hơn, và nếu cùng lúc đó họ xấu xa thì lời giải thích của họ cũng xấu xa. Bởi những người mà anh kể bị đối đầu với điều khó hiểu họ không thể giải thích mà không cần đến lời nhục mạ và ác độc để giúp, thành ra họ chộp lấy sự giả dối không lành thay cho sự thật tốt lành, không phút nào nghĩ lại là nó đúng hay sai, chỉ rất mừng là có cớ để nói xấu thỏa thích. Bởi thế giới nói chung hoàn toàn không thể hiểu lòng vị tha, xả kỷ có liên hệ với động cơ, mà tin rằng không có động cơ nào hơn là có động cơ vị tha. Tuy vậy những kẻ trò chuyện đó chỉ là dụng cụ của lực xấu gọi là Huynh đệ Tả đạo, luôn tìm cách đẩy người đệ tử ra khỏi Chánh đạo vừa khi họ tỏ dấu hiệu là trở thành một lực cho điều lành.

‘Tuy anh không biết nhưng họ là người thúc giục anh đi về phía quán để có thể nghe được lời họ nói. Và tuy ta biết thế, do sự kiện là vị đạo sư biết được những dấu hiệu tinh tế của các huynh đệ tả đạo ấy, dầu vậy ta không khuyến cáo anh, nghĩ rằng tốt hơn nên cho cả hai người có thử thách, và niềm tin của anh phải được thử thách theo cách chắc chắn nó sẽ bị vậy, những thử thách cần thiết cho sự tiến bước của anh, và là khởi đầu cho việc nhận những chân lý tinh thần lớn hơn.

‘Bởi hãy biết rằng chúng ta, nhóm Huynh đệ Chánh đạo, nỗ lực biến điều xấu thành tốt, dùng mọi phương tiện của đối phương cho mục đích cao cả hơn của chúng ta; và tuy rìa có chất độc trong dụng cụ trên tay họ không gây cho anh thiệt hại gì, nhưng rìa bén hơn và sạch hơn do chúng ta dùng làm trầy anh một chút, tuy anh đắc thắng qua được thử thách không hề hấn, mà bị chút trầy trụa. Vì phản ứng đầu tiên và tốt nhất là chớ  bao giờ nghi ngờ chi, và thứ hai là nghi ngờ chính những nghi ngờ của mình như anh đã làm, còn cách thứ ba và sai lầm là nghi ngờ mọi chuyện, nó có nghĩa bị chậm trễ hay luôn cả thất bại ở cuối đường.

Antonius buồn bã nhìn vị thầy và nói.

– Ô, thưa thầy, lòng tử tế của thầy đã trách mắng con cũng như khả năng thuyết phục của thầy, làm con xấu hổ với những nghi ngờ của mình, và buồn rầu về chuyện mà nay thấy là sự vô ơn của con, sao đi nữa, chuyện có đúng không nếu con mù quáng tiến bước mà không hề thắc mắc điều chi ?

Petrius trả lời với nụ cười thân ái.

– Không, không nên có điều ấy, tuy câu hỏi của con chắc chắn cho ta thấy con lẫn lộn thắc mắc với nghi ngờ, cho rằng chúng là một và như nhau, thật ra không phải thế mà có sự phân biệt rất tế nhị. Vì thắc mắc là có niềm tin và tin vào tính chất hợp lý của điều mình hỏi, thành ra nó tích cực và xây dựng.Còn nghi ngờ là không tin vào sự hữu dụng của chính câu hỏi, và như vậy tiêu cực và phá hoại. Hay giải thích vấn đề theo một cách khác, đặt câu hỏi là cách chúng ta muốn xây dựng một điều gì trên nền tảng mà ta biết là vững chắc, như ai sau khi tìm được hòn đá vững vàng nay bận rộn với việc vẽ kiểu và tạo nên ngôi nhà muốn xây, còn hành động nghi ngờ là không tin vào việc có thể xây được nhà, cho rằng nền nhà hư hại tự nó không vững chắc, thành ra không thể nâng đỡ bất cứ cấu trúc nào.

‘Tuy nhiên, đừng nghĩ rằng nghi ngờ tự nó là tội lỗi, nghi ngờ nó chỉ là dấu hiệu cho thấy sự vô minh, hay thiếu hiểu biết trong trí của ai nghi ngại, vì họ cần phải có hai hòn sỏi để thuyết phục họ là hai cộng hai thành bốn, nghi ngờ sự khả hữu của nó, lập tức cho thầy của họ thấy là họ thiếu thông minh, ở điểm không thể nhận ra sự kiện giản dị mà không cần phải có bằng cớ vật chất. Nay hãy về nhà, đừng nghĩ gì thêm đến chuyện với lòng hối tiếc, vì quả thật sự hối hận chỉ là hành động phí phạm, đồng hóa trí não với sự buồn rầu, chán nản thay vì nỗi hân hoan là gia tài thiêng liêng của nó.

Khi ông nói xong, Antonius cầm lấy tay ông và hôn nó, quay đi không nói thêm lời nào.

 

 

 

XIII

 

Nhiều tuần nữa trôi qua, mỗi tuần mang lại thêm một chút hiểu biết và hạnh phúc, năng lực, và thêm vào đó là sự đẹp đẽ của thân xác và mỹ lệ của tâm hồn.

Ngày kia Petrius nói với Antonius.

– Nay vài quyền năng ẩn tàng sắp được khơi dậy, chỉ cần thúc đẩy nhẹ là chúng thể hiện, và khi ấy anh sẽ thấy được một phần của những cõi thanh trong thiên nhiên  với khả năng thấy ở cõi ether của anh. Tuy nhiên trước đó ta có việc giao cho anh, cần đi một đoạn đường vài tiếng và đi một mình. Ta có một gói là vật đáng giá, muốn nhờ anh giao cho một người bạn trong làng trên đỉnh đồi kia mà chúng ta có thể thấy qua khe trống đằng xa của rặng cây.

Và ông dẫn Antonius tới nơi đã nói, cùng lúc lấy trong ngực áo ra một túi nhỏ đưa cho anh với lời dặn dò kỹ lưỡng. Ngày hôm sau Antonius lên đường, hân hoan được làm việc cho người thầy mà anh yêu quí, mà cũng tiếc là vì thế mất đi một buổi học. Lúc anh khởi hành thì trời phủ mây đen nặng nề, rồi trút mưa xuống, chẩy thành dòng ở hai bên con đường, mang theo bùn và đá sỏi cùng với nó làm Antonius ướt loi ngoi khi dầm mưa chống gậy cố gắng đi. Nhưng khi anh xuống tới thung lũng rộng bên dưới thì mưa ngưng, hơi nước dạt qua bên để lộ đó đây những khoảng trời xanh, tựa như hồ nước xanh có cây lá không rõ hình dạng mầu xám bao bọc.Và rồi tới một khoảng trống, anh có thể thấy đỉnh núi tuyết phủ mà nay mai là đích của anh, đâm thẳng lên trời, có mây xám mờ ảo bao phủ.

Anh nghĩ thầm.

– Phải bao lâu nữa ta mới lên tới đỉnh núi to lớn kia, mà liệu sẽ tới chăng, vì ta đã vui sướng đủ mà không cần đi xa hơn nữa ?Và nếu niềm vui có được trên đó so ra nhiều hơn so với niềm vui đã gặp từ trước tới nay, thì có điên mới ở mãi chỗ ta đang ở.

Anh miên man suy nghĩ về điều này khi băng qua thung lũng rộng rồi leo dốc lên ngọn đồi phía bên kia, rảo bước để chóng tới nơi trước khi mặt trời lặn khiến không còn ánh sáng cho anh thấy lối đi. Bởi thời tiết xấu đã làm anh bị trễ nhiều, còn muốn trở về Petrius trong cùng ngày thì nay không thể được, bởi  khi anh có thể làm xong công việc thì  đã chiều tối mất rồi. Anh trèo lên đường dốc đứng, trơn trợt vì trận mưa vừa qua, làm anh cảm thấy cuộc hành trình gần như không hề dứt, tuy màn đêm sắp buông xuống và anh có thể thấy ánh đèn le lói từ ngôi làng anh phải đến trong không khí ẩm ướt trên cao.

Đột nhiên khi đang leo dốc, không nghi ngại gì mà chỉ sợ trượt chân trong bóng tối, từ bụi cây một người nhẩy xổ ra, không một lời nào đâm bổ vào anh, muốn chiếm lấy cái gói cất trong người Antonius. Thế là có cuộc vật lộn mà kết cục hẳn phải đáng sợ nếu Antonius không phải là kẻ mạnh hơn. Lúc mới bị tấn công Antonius có ý lấy gậy đập vào kẻ địch, nhưng dằn tay lại không muốn gây thương tích cho người kia. Lập tức người kia vùng vẫy thoát ra, Antonius thấy lấp lánh ánh thép của con dao trong tay họ, lúc người này đứng đe dọa xa vài bước. Hắn nói.

– Đưa ta gói ấy kẻo không thì ăn dao vào ngực.

Antonius trả lời.

– Không được, vì gói này không phải của tôi để cho anh.

Rồi người kia nói.

– Ta sẽ tha và cho mi giữ gói ấy nếu chịu mở nó ra, đọc cho ta nghe bí mật chứa trong ấy. Ta chỉ tha cho mi nếu làm vậy.

Antonius đáp.

– Không, nếu tôi mất mạng thì gói này cũng mất theo, vì ở đây không có ai ngăn anh lấy nó. Còn nếu chúng ta đánh nhau, tôi sẽ chỉ làm anh mất vũ khí mà không hạ sát anh, vì tội nghiệp cho người bị xô đẩy phải cướp bóc kẻ vô tội không hề làm hại ai. Xem này, tôi cũng có vũ khí mà chắc chắn tôi có thể hạ sát anh vì tôi mạnh hơn, nhưng làm vậy ác độc, không nên nghĩ đến.

– Thế thì, kẻ địch nói, hỡi kẻ nhát nhúa, anh sợ cho tính mạng của mình mà che dấu nỗi sợ hãi bằng lời  rộng lượng, và tuy ta là kẻ yếu hơn, dầu vậy ta sẽ tấn công để đoạt bí mật ấy, có giá trị hơn sự sống.

Với lời thách thức ấy, tim Antonius bùng lên giận dữ làm anh phải ráng hết sức mình để dằn lại, và rồi phút kế một thúc giục nổi lên khiến anh muốn quẳng con dao ra xa (để không bị cám dỗ) mà anh làm theo không suy nghĩ. Ngay khi ấy anh kinh ngạc nghe thấy một giọng nói êm dịu khôn tả nói.

– Hỡi bạn, chiến thắng là về bạn, thử thách đã xong và quả thật bạn hành xử rất đúng; vì sự thật là tôi không phải kẻ cướp mà chính là người mà bạn muốn gặp để giao gói này. Tôi đến gặp bạn để thầy của bạn thực hiện thử thách, làm nó để có lợi cho bạn.Và nay hãy nhặt dao lên đặt trở vào vỏ. Một ngày không xa lắm đâu anh sẽ không cần tới nó nữa, vì ai đã có được tình yêu thương toàn hảo thì thoát khỏi mọi tấn công, bởi họ đã học cách bảo vệ mình bằng khí giới hùng mạnh hơn gươm giáo.

Thế nên Antonius, vui mừng nhẹ nhõm và kinh ngạc hòa làm một, nhặt con dao lên mà ngạc nhiên quá đỗi không thốt nên lời, còn kẻ thù giờ biến thành bạn tiến lại cầm tay anh và nói.

– Nay hãy để tôi giúp anh tới cuối đường, vì tối nay anh sẽ ngụ tại nhà tôi, tôi rất hân hoan được tiếp đón anh, và anh xứng đáng có thức ăn, phòng ấm áp.

Antonius theo ông ngay, cảm thấy an ổn lạ lùng qua sự dịu dàng rất mực trong giọng nói của ông, còn anh không thấy được gương mặt của ông chi cả vì trời tối và rừng dầy. Rồi người ấy nói.

– Cuộc thử thách thật nặng nề, nhiều hơn bạn tưởng vì không biết nó phải tính đi sâu bao xa vào tâm bạn. Nhưng ta sẽ nói tới nó về sau, khi bạn thay y phục khô ráo, dùng bữa và nghỉ ngơi; vài phút nữa là tới nhà.

Rồi chẳng mấy chốc Antonius đứng trước cửa nhà của người bạn mới, và do vậy có thể nhìn thấy gương mặt thốt ra lời dịu dàng thế kia. Ánh đèn rọi cho thấy đó là người đàn ông chừng 35 tuổi, ốm, dong dỏng mà đầy sinh lực, nhanh nhẹn, mạnh mẽ không có chút mềm yếu nào cho dù rất đỗi êm ái khi cất lời. Và nhà của ông tuy khiêm tốn và không có vật gì xa xỉ, trông gọn ghẽ, ưa nhìn và thấy như do một người nam giúp việc trông nom. Họ làm nước cho anh tắm và có sẵn quần áo cho anh thay, khiến Antonius rất biết ơn vì người ướt  mem, mệt mỏi và thấy lạnh.

Sau khi tắm rửa, thay y phục và dùng bữa xong, Antonius nói với người bạn mới.

– Nay, tôi xin anh, tuy biết là tôi đã qua cuộc thử thách, nhưng anh vẫn không rõ nó muốn nói gì, giá trị chính xác của nó là sao và quan trọng thể nào.

Người bạn nói.

– Hãy biết rằng đã tới lúc cho bạn được truyền dạy, chắc chắn Petrius đã cho bạn hay, phương pháp có được quyền năng mà người thường không được biết. Nhưng trước khi làm vậy, người thầy phải đoan chắc là học trò có thể tin tưởng được để giao phó những lực mạnh mẽ dường ấy, kẻo không thì nó tựa như cho trẻ con chơi với lửa. Bởi hãy biết rằng tâm người cần được thanh tẩy hết mọi cám dỗ muốn trả thù, hay sinh lòng tức giận với bất cứ khiêu khích nào, cũng như không nó phản ứng nổi xung dẫn tới việc thiếu kiểm soát và bất cứ hình thức trả đũa, ăn miếng trả miếng. Và không phải chỉ có thế, vì để giữ gìn những quyền năng này thì cần có sự bảo mật tuyệt đối, tới mức học trò thà mất mạng còn hơn tiết lộ bí mật.

‘Thành ra, tôi là người trong nhóm được dặn cho anh gặp thử thách khó khăn này, tấn công anh để xem anh có trả đũa lại, rồi thêm vào đó tìm cách lấy bí mật từ anh, để thử hoàn toàn tư cách của anh.

Antonius nói.

– Vậy tôi hiểu rồi nhưng còn một điểm cần làm sáng tỏ, là khi tôi từ chối không đánh nhau tới chết, cho anh hay là ngay cả khi tôi chế ngự được anh, tôi cũng chỉ bảo vệ mình mà không hề làm anh thiệt mạng hay ngay cả bị thương, tại sao nghe vậy mà anh gọi tôi là kẻ nhát nhúa, bởi đánh nhau với anh và chuyện thắng thua dễ biết thì đâu có đáng phải chọc tức như vậy ?

Người bạn mỉm cười rất hiền lành với anh và nói.

– Này anh bạn, đó mới là tột đỉnh của thử thách, nhắm vào việc đem ra ngoài mặt lòng can đảm tuyệt vời trong tim bạn, là điều thiết yếu hơn hết những điều khác nơi người sơ cơ. Bởi hãy biết rằng lòng can đảm (và ngược lại lòng hèn nhát) thuộc hai loại, loại thấp hơn thuộc về thể chất và loại cao hơn thuộc về đạo đức; trong khi điều trước chỉ tùy thuộc vào sức khỏe và thể chất nói chung, điều sau tùy thuộc vào chuyện khác cao hơn hẳn và do vậy cũng hiếm hơn.

XVI

Thêm vài tuần nữa trôi qua, nay đến lúc có chặng đường mới cho cuộc hành trình, dẫn tới một phố thị cách đây vài ngày đường, nằm trên đồi cao. Thế nên một sáng nọ, Petrius bảo hai đệ tử là họ phải chào từ giã để đi sang chỗ mới.

– Từ nay trở đi, ông nói, đời hai con sẽ khác đi trong một lúc, không còn ẩn dật với người đời, mà các con phải như là nhà truyền giáo, tìm cách phổ biến sự sáng ra chung quanh, tuy cùng lúc cần mẫn gìn giữ bí mật của những thực hành mà ta đã giao cho các con. Để làm việc này, các con phải có tiền hộ thân, thêm y phục và dụng cụ nói chung; hãy ở nhà sẽ dành sẵn cho hai con mà ta đã đặt chỗ trước. Về y phục và tiền, ta sẽ cho một huynh đệ sống gần nhà riêng của hai con gửi gia nhân đi ngựa tới đây, để con có thể dặn dò hết những điều cần thiết, bởi nhóm Huynh Đệ chúng ta có cách liên lạc với nhau qua không gian, cách mà trong tương lai gần con sẽ học, biết rằng không gian không là trở ngại cho quyền năng của tư tưởng hay việc chuyển tâm thức từ chỗ này sang chỗ kia. Vậy chiều mai gia nhân của con sẽ có đây, và ngày sau đó các con sẽ lên đường làm chuyện mới. Hơn thế nữa, ở nơi mà con sẽ đến, có tên là Marbletown  (do việc tất cả tòa nhà nơi đó làm bằng đá cẩm thạch trắng), con sẽ gặp một vị thầy khác, tên là nhà hiền triết Florian, có bề ngoài thật đáng kính trọng và vang danh với minh triết của ông. Chỉ thỉnh thoảng các con mới đến gặp ông tuy hãy đến chào ngay khi vừa tới, để ông cho hay chỗ ngụ của con, và công việc sẽ làm.

Thế thì, mọi việc xẩy ra như Petrius nói, gia nhân của anh đến vào chiều hôm sau với tiền bạc và dụng cụ, luôn cả lừa để cỡi trên chặng đường, vì nó dài và dốc. Khi sắp tới giờ lên đường, tim Antonius rung động vì sự buồn rầu, cộng thêm với  nỗi cảm xúc của việc chia tay làm anh khó cầm giọt lệ cứ ứa lên chực trào khỏi mắt. Anh chào Petrius lần cuối, nói nghẹn ngào.

– Thưa thầy, con đã học nhiều điều từ thầy, nhưng có một điều con không học được là không cảm thấy sầu não khi chia tay với người mà con thương mến. Nay con hết sức buồn rầu, do sự thành tâm và biết ơn không tả được bằng lời, mà chỉ bằng giọt lệ.

Petrius nhìn anh với sự dịu dàng khôn tả và tình thương trong ánh mắt của ông, cầm lấy tay anh và nói với giọng vô cùng êm ái.

– Hỡi con, đừng ngượng ngùng với nước mắt của con, tuôn tràn từ thi tứ của bản chất con và có sự hùng hồn của lòng biết ơn hơn bất cứ lời khéo nói nào. Mà đúng ra ta mới phải là người có lời cảm tạ con, vì niềm tin tuyệt đối, lòng kiên nhẫn, chuyên cần và năng khiếu nơi con; và nếu ta không khóc ấy là vì sự ra đi của con không có nghĩa xa cách với con, vì ta sẽ theo con trong tâm thức ta và luôn cả Cynara yêu quí.

Và ông kéo cô lại gần, khi ấy cô đứng gần buồn rầu nhìn cảnh tượng.

– Hãy biết rằng mối dây liên kết giữa thầy và trò không thể nào bị đứt lìa, và tâm thức con nay trở thành một phần tâm thức của ta, mãi mãi hòa trong đại hồn. Như thế, hỡi con, đừng sầu não vì một ảo ảnh, và đừng nghĩ rằng con có thể xa cách ta trong thực tại chỉ vì thân xác rời xa. Chẳng bao lâu con có thể thực sự thấy và nói chuyện với ta bất cứ khi nào con muốn, vì khi ấy con sẽ có mắt cảm nhận được những gì bây giờ chưa cảm nhận. Không, lời giã biệt chỉ là sự não lòng uổng phí, cho tới lúc mắt không thể rơi lệ, khô hẳn vì ánh sáng thanh khiết của niềm hoan lạc phát xuất từ linh hồn. Chuyện phải như thế. Tuy nhiên, nếu tình thương của ta có thể làm khô lệ cho con, chắc chắn nó sẽ làm, nhưng bởi nó không thể làm vậy hãy biết rằng cuộc chia ly này chỉ ngắn ngủi, vì nhãn quan bên trong của con sẽ khơi dậy rất sớm và con sẽ thấy vị thầy cũ thân yêu đứng cạnh như thể con chưa bao giờ từ biệt ông.

Ông ôm choàng cả hai người thân ái một lúc lâu, nói.

– Nay, hỡi hai con yêu mến, hãy lên đường, kéo dài sự biệt ly chỉ là kéo dài nỗi sầu khổ.

Cynara, với nước mắt ròng ròng, dẫn Antonius nay sùi sụt đi lên đồi, Petrius nhìn theo hai người với nụ cười, trong đó tình thương, lòng từ và tình phụ tử tất cả hòa làm một, cho tới khi không còn thấy bóng họ.

Từ đó trở đi cuộc đời của hai người lữ hành có thay đổi, bắt đầu bằng cuộc hành trình đi tới thành phố Marbletown, rồi một khoảng dừng chân dài trong khung thành trắng của nó. Lần này cuộc hành trình không dài mà cũng không khó nhọc nhờ con lừa mà Antonius được cho mang theo. Dầu vậy trong một lúc tim anh đầy sầu não, cảnh vật và chuyện trên đường đi trải qua mắt anh gần như không được chú ý; tư tưởng anh vẫn còn quyến luyến Petrius, và nỗi đau lòng của việc chào từ biệt làm tâm hồn anh xúc động mạnh. Nhưng nỗi đau buồn chỉ kéo dài một lúc ngắn và biến mất mau lẹ khiến anh nói với bạn đồng hành.

– Hỡi bạn yêu quí tâm đầu ý hợp, khoa học của Thượng Đế này thật tuyệt diệu, xóa tan lòng sầu não mau lẹ quá, làm nó biến mất nơi người  như nước rơi khỏi lưng con thiên nga, như thầy Aristion của chúng ta có nói. Và chẳng biết vì sao anh có cảm tưởng như lòng sầu não của nó lại đẹp hơn các niềm vui đẹp đẽ nhất trong đời; nếu quả thật chúng đẹp đẽ, vì mọi chuyện được thăng hoa bất kể đó là gì, và điều tuyệt nhất trong số đó là tình yêu.

Cynara nhìn anh dịu dàng, gửi anh một nụ hôn vì cô cũng cỡi la đi bên cạnh. Và rồi, khi chiều xuống họ tới đỉnh một ngọn đồi, thấy phố thị Marbletown xinh đẹp mầu trắng bên dưới kia, trong một vùng trũng nằm nép dưới bóng của núi sừng sững phía bên kia. Ánh trời chiều nhuộm đỏ mái vòm, gác chuông và tháp với mầu cam, làm nó trông như chỗ thần tiên quyến rũ, ẩn kín khỏi cuộc lao lực tầm thường của dân chúng rải rác giữa những ngọn đồi. Có nhiều cây trắc bách diệp to mọc đó đây giữa các tòa nhà, như lính gác khổng lồ đứng canh bất tận, khiến Cynara kêu lên.

– Em chưa bao giờ thấy cảnh gì thinh lặng mà đẹp đẽ dường này.

Một lát sau, sau khi hỏi han nhiều người và tìm kiếm, hai kẻ lữ hành gặp nhà hiền triết Florian trông đúng với tên gọi của ông. Tóc ông trắng và dài, chải ngược ra sau để lộ vầng trán rộng, thanh cao, không có vết nhăn nào, chòm râu trắng như tuyết, buông dài xuống quá ngực và nhọn ở cuối; mắt ông sâu lạ lùng, nhìn thẳng vào người đối diện như có thể xuyên thấu vào tận linh hồn của họ. Hơn nữa, ông có phong thái và phẩm cách của một vị quan trong triều, nét nghiêm nghị ít khi được làm nhẹ bớt bằng nụ cười, tuy khi mỉm cười gương mặt của ông hóa ra hết sức nhân từ, êm dịu biến ông thành nhân vật khác hẳn.

Giọng nói của ông cũng theo như dáng người, sâu và vang làm người ta phải chú ý, vì ông nói năng từ tốn và mạnh mẽ, nhưng có điểm xuyết câu chuyện với sự dí dỏm, làm cho nó càng khôi hài hơn vì xem ra ông hoàn toàn không để ý tới điều đó, nói lời thật súc tích mà gần như không phớt nụ cười nào. Khi Cynara và Antonius được dẫn vào gặp ông, người có phong cách làm ta phải e dè, ông đứng lên khỏi ghế đang ngồi đọc một cuộn giấy, và cúi người chào, khoát bàn tay dài, mỏng, mầu trắng, làm cử chỉ mời họ ngồi. Ông ngồi trở lại xuống ghế và nói.

– Ta tin là hai con từ Petrius bạn ta đến phải chăng? Và mọi chuyện êm xuôi chứ? Nhà cho hai con đã sẵn sàng, nằm gần đây, học trò ta Leonidas sẽ đưa hai con về đó.

Ông ngưng một lát, để Antonius nói lời cảm ơn sự chu đáo của ông, sau đó ông nói tiếp.

– Thánh thần đã gửi hai con tới đây để giúp ta trong công việc của chúng ta, vì thành phố này có đầy triết gia mới ra ràng cần được chỉ dạy, đa số chỉ là kẻ có học lười biếng, ở trong một nhóm với nhau, nghĩ rằng sẽ khám phá ra chân lý trong đó và hoàn toàn mù quáng, không thấy sự việc là chân lý nằm hẳn ở ngoài nhóm của họ.

Antonius nói.

– Ô, thưa thầy, có người như thầy ở giữa bọn họ, chắc chắn họ không thiếu người cứu độ và chẳng thiếu thốn sự sáng.

Nhà hiền triết trả lời.

– Như hai con thấy, ta đã lớn tuổi nên bị xem là lỗi thời và lạc hậu, kẻ ít tuổi có thái độ coi thường, ra vẻ bao dung không tôn kính. Mà ấy là sự che chở cho ta, khiến ta được yên thân không bị quấy nhiễu và giữ ngầm quyền điều hành không ai biết.Vì họ nói, ‘Ông chỉ là ông lão, lụm cụm trong xóm nghèo với triết lý cũ rích, vậy ý kiến của ông không có giá trị gì’.Nên họ để yên cho ta, và đó là điều ta mong muốn, cho phép ta chỉ dạy các đệ tử trẻ hơn làm việc cho công cuộc của chúng ta mà có vẻ như không cần đến ta chi cả. Ấy là cách làm việc tiện lợi nhất để ảnh hưởng nhân loại, góp phần nhỏ bé của mình vào việc cải thiện chúng sinh.

‘Bởi đáng tội thay, thời đại mà chúng ta đang sống đây chìm sâu trong bể lầy lội của thuyết duy vật và không có niềm tin do vô minh. Đây là sự kiện sinh ra từ việc có ít hiểu biết.Nó là chuyện nguy hiểm vì hoàn toàn thiếu lòng khiêm tốn, với hệ quả là lòng kiêu căng được nuôi dưỡng. Các triết gia của chúng ta dựng nên một sự hiểu biết không có thực, không dựa trên gì hết mà chỉ là sự vô minh, hậu quả là họ phủ nhận sự bất tử của linh hồn, và sự hiện hữu của bất cứ tâm thức nào bên ngoài và bên trên cái vỏ vật chất; tìm cách khuyến dụ ngay cả ai có mắt tâm linh đã mở thấy được chuyện vô hình, rằng hết các cảm nhận ấy chỉ là tưởng tượng và không có gì cả ngoài cõi trần. Thế nhưng chắc chắn sự vô minh không bao giờ có thể thuyết phục được sự hiểu biết, cũng như việc thiếu kinh nghiệm không bao giờ có thể phủ nhận được kết quả của kinh nghiệm.

‘Nó làm ta nhớ lại chuyện mà sẽ thuật cho hai con nghe, bởi ngày kia chuyện nó sẽ có ích khi tranh luận. Xưa kia có một thành phố đầy người mê tín và vô minh, làm phật lòng thần thánh vì vài nghi lễ không thánh thiện và phạm thượng mà họ làm, có lòng tàn nhẫn, hành hạ dùng người làm vật tế thần. Không phải chỉ có đàn ông, đàn bà bị tế cho ma quỷ, mà trước tiên họ bị móc mắt trong khi dân chúng chứng kiến, say sưa với cảnh tượng và tiếng kêu la đau đớn vang dội trong không. Cuối cùng, như ta nói, thần thánh giận dữ, cương quyết chấm dứt hành động man rợ này trừ phi dân chúng ngưng hẳn không bao giờ làm nó nữa.

‘Thần thánh gửi một ông đạo từ xa mang thông điệp tới, đứng giữa chợ kêu gọi mọi người theođường ngay nẻo chánh. Mà chẳng ai nghe lời ông, chỉ có năm hay sáu người là chịu lắng nghe còn thì ai cũng giả điếc.Sau rốt ông kêu to.

– Các người thật cứng đầu, tai điếc, nay ta phải làm theo lệnh của thánh thần là chủ nhân của ta, nguyền rằng thành phố này với hết thẩy dân cư trong đó, và con, cháu, chắt, chút, chít của họ sẽ bị mù, trừ những ai nghe lời ta. Nhân danh Thượng Đế.

‘Giọng nói của ông vang vang, kinh khủng, làm rúng động vì lời nguyền ghê gớm. Thế rồi chỉ trừ năm hay sáu người biết ăn năn hối lỗi, tất cả dân cư trong thành phố bắt đầu bị khiếm thị, rồi tới con, cháu, chắt, của họ sinh ra bị mù, không có ký ức hay ý niệm việc có mắt thấy có nghĩa là sao, nhưng con, cháu của ai ăn năn hối lỗi, sinh ra như mọi ai khác trong đời, có nhãn quan lành lặn. Thỉnh thoảng có cuộc thảo luận lớn giữa ai bị mù bẩm sinh và ai có mắt thấy được, người trước cãi.

– Này, lũ khùng, coi coi, điều mà các anh gọi là thấy đó chỉ là tưởng tượng và là trò lường gạt, không nghĩa lý gì, vì sự thật là nó không có căn bản, vậy mà các anh ba hoa với chúng tôi chỉ để làm điệu làm bộ, khiến cho mình được chú ý và được xem là quan trọng, muốn chơi trội hơn chúng tôi là người bình thường mà biết điều hay lẽ phải hơn.

‘Người sau tìm cách thuyết phục họ bằng lý luận và lời hùng biện, nhưng thấy biện luận không đi tới đâu bèn nói.

– Được lắm, chúng tôi sẽ thuyết phục các anh bằng cách làm điều mà các anh hoàn toàn không thể nào làm được.

Làm vậy không khó, vì họ có mắt không bị việc mù lòa giới hạn và có thể làm nhiều điều mà nhóm người kia không làm được. Nhưng đối thủ của họ lại nói.

– Đây không phải là chứng cớ vì trò của các anh chỉ là đánh tráo tay và thủ đoạn bịp bợm của kẻ lừa bịp, giả mạo, hãy cút đi, đừng ba hoa thêm nữa.

‘Sau một thời gian dài, tới lúc lời nguyền được giải, có một y sĩ lạ, cao lớn, đột nhiên  xuất hiện ở thành phố bị nguyền rủa ấy, gây tiếng vang chấn  động với thuốc thoa mắt mà sau khi dùng nhiều lần, làm người mù được sáng mắt. Ai bị mù mà được chữa thì lành bệnh, nhưng số người còn lại hô hoán ông là lang băm, chịu ảnh hưởng của ma quỷ, âm mưu chống họ, nên chính quyền cấm không cho ông vào thành phố, với cớ vu khống là ông chữa bệnh lấy tiền, với lời vu oan thấy ngay là sai lầm. Khi nghe vậy, thần thánh bàn với nhau.

– Lời nguyền mà chúng ta áp đặt cho những cư dân khờ dại này, nhằm trừng phạt họ và do vậy đưa họ ra khỏi con đường tội lỗi, nay đã hết; nhưng nếu họ muốn tự mình bị lời nguyền thứ hai là sự mù quáng và điên rồ, và lần này họ bác bỏ cơ hội chúng ta cho họ thì ấy là chuyện của họ, không còn là chuyện của chúng ta.

‘Nhưng kết quả là thành phố vẫn còn hai thế hệ bị mù, và lẽ ra còn vậy tới ngày nay, nếu không nhờ những ai sáng suốt trước đây được chữa khỏi, đã vì lòng thương xót đồng bào mình, đưa y sĩ trở lại và nhiều người khác giống ông để chung cuộc ai cũng hết bệnh.

Tới đây nhà hiền triết già ngưng chốc lát trước khi sang phần luân lý trong chuyện của ông, nhìn vào hai thính giả với ánh mắt soi thấu. Ông nói.

– Ý nghĩa của ẩn dụ này nằm không xa cho ai hiểu biết, vì thành phố bị nguyền rủa ấy không gì khác hơn là thế giới, và cư dân của nó là cư dân trên địa cầu này; có lúc có mắt để nhìn như là thông nhãn và cảm nhận tâm linh, nhưng vì ham muốn có quyền hành và những tật xấu khác sinh ra do lòng ích kỷ và óc duy vật, các vị  thần về Định mạng bắt buộc phải lấy lại những khả năng, làm họ như bị mù, và chỉ có biệt lệ cho một số nhỏ người linh hồn đã giác ngộ và vị tha hơn, để cho chân lý có thể không mai một hoàn toàn khỏi thế gian. Nay tới thời điểm lời nguyền trên sắp hết, và cũng chính những vị ấy gửi y sĩ đến dưới dạng các Đạo sư,  nhà Tiên tri, và Huấn sư để chữa bệnh khiếm thị cho nhân loại.

‘Thay vì chào mừng các vị cứu độ mới, họ lại không muốn có chút nào, tự mình làm kéo dài lời nguyền do sự mù quáng của mình, bác bỏ làm ra vẻ khôn ngoan, có thói kiêu hãnh trí tuệ, và những tánh tình do lòng vô minh giả dạng như là hiểu biết sinh ra. Thế nên họ bách hại ai đến cứu họ, tìm cách xua đuổi không thật lòng quan tâm đến. Dầu vậy, do tình thương cho những kẻ bách hại mình, các vị cứu thế vẫn lưu lại, gieo vào tâm trí của thi sĩ, triết gia và văn sĩ những mầm nhỏ bé của Chân lý, tuy các văn, thi sĩ này không hay biết. Hãy biết rằng hứng khởi không gì khác hơn là một thoáng nhìn nắm bắt được chân lý ở cõi cao, gieo vào tim của thi sĩ hay triết gia, nhờ các vị không ngừng làm việc cho sự giác ngộ của nhân loại, để cho khả năng của họ được gợi hứng tương ứng với khả năng làm cho mình được cảm thụ, giữ cho trí não không bị mù quáng và kiêu hãnh, lòng ích kỷ làm chướng ngại, làm con tim bị ô uế hơn điều gì khác trong thế giới.

‘Nay, hỡi con, như ta có nói, thành phố này có đầy triết gia mới ra ràng cũng như thi sĩ, điêu khắc gia, ca sĩ hát rong đủ loại, họ tụ về đây vì nét mỹ lệ của nó và không khí trong lành. Một số rao giảng chuyện vô cùng khờ dại, người khác thấy được một thoáng chân lý chỗ này chỗ kia, và có lẽ không mau hay lâu sau đó sẽ được thu hút tới nhóm Huynh Đệ; tuy nhiên xem ra số đệ tử chỉ có ít oi nên ta mừng có hai con đến làm đông hơn, giảng giải lời ta thêm cho họ, gieo đây kia hạt giống may ra rơi vào mảnh đất phì nhiêu ... Nay ta sẽ chogọi Leonidas là học trò của ta, để hắn đưa hai con về chỗ cư ngụ, bởi không nên để gia nhân đứng chờ bên ngoài với con la quá lâu.

Và rồi ông chậm rãi bước ra khỏi phòng, lưng không cong và bước chân vững chắc như thể ông là thanh niên. Cynara quay sang Antonius với nụ cười dí dỏm, nói khẽ làm như học trò nói chuyện lén khi thầy giáo ra khỏi lớp một lúc.

– Em tự hỏi ông bao nhiêu tuổi, và tại sao trông ông già thật, còn nhiều người khác so ra trẻ hơn. Chẳng những ông trông thật đáng kính mà còn làm em cảm thấy nể phục.

Ngay khi ấy ông quay vào phòng, đem theo một thanh niên người tầm thước, có đầu nhỏ lạ lùng và phong thái lộ ra đầy sinh lực, thấy qua cử chỉ nhanh nhẹn tuy không có vẻ chộn rộn nào. Người mới vào này chào các bạn học với nụ cười thân tình, nói vài lời thân ái đón tiếp họ, bảo hai người cần điều gì xin cứ cho anh hay để giúp, và sẵn sàng làm bất cứ chuyện gì mà họ muốn. Thế nên, sau khi chào từ biệt nhà hiền triết, giây lát sau họ về tới chỗ ngụ mới của mình, trông nó khiêm tốn nhưng thanh nhã, tiện nghi và sạch như bong; đèn đã thắp cho thấy tường phòng trắng bạch có in ánh nắng vàng của trời chiều sắp tàn.

 

XVII

Từ hôm ấy trở đi đời của hai người có thay đổi, và rồi họ quay trở lại môi trường cũ, có thêm bạn và theo đuổi nhiều sinh hoạt. Thời gian trôi qua, những quyền năng khi trước anh được cho hay là sẽ tới, nay bắt đầu lộ ra, khiến cho Antonius thấy mình ăn nói trôi chẩy và hùng biện làm chính anh cũng phải ngạc nhiên. Thêm vào đó anh có khả năng chữa được nhiều bệnh, và trên hết thẩy, chữa được tâm hồn sầu khổ.

Kết quả của những việc này là đủ mọi hạng người đến với anh, người muốn học nơi anh, người khác muốn thảo luận, có người muốn được chữa lành. Mà rồi kẻ thù cũng tụ lại, vì anh thách thức thói đời, và cũng vì anh gợi nên lòng ganh ghét, ngờ vực do việc thiện và chữa lành, do anh không nhận tiền trả cho công lao của mình, và bởi thế làm các y sĩ tức giận cũng như là giáo sĩ. Người sau thắc mắc về niềm tin tôn giáo của anh, thấy chúng không giống như của họ.Các y sĩ nói với nhau.

– Hắn chữa bệnh không lấy tiền, như thế hắn làm chúng ta sạt nghiệp, vì bệnh nhân sẽ bỏ chúng ta để tới với hắn. Hơn thế nữa hắn đi ngược với hiểu biết của chúng ta về y khoa, dùng những phương pháp mà chúng ta không tán đồng và hẳn là phải sai, như vậy nếu bệnh nhân khỏi bệnh thì nó phải là do việc họ dễ tin mà không phải do điều gì khác.

Còn các giáo sĩ nói.

– Hắn không hề dự vào nghi lễ nào của chúng ta, hay vào đền thờ, ca ngợi thần thánh, vậy hắn phải là kẻ dị giáo và cho ảnh hưởng xấu, là sự nguy hiểm cho cộng đồng. Thế thì nó là chuyện hay nếu chúng ta hạ bệ hắn.

Ai theo thói đời thì nói.

– Hắn phạm hết tất cả những luật trong xã hội, không làm theo chuyện này hay kia; ngoài ra đệ tử của hắn là thiếu phụ và thiếu nữ. Hắn không lấy học phí và đâu có ai làm gì không công trong đời, ta có thể nói đúng rằng hắn là kẻ chơi bời, che đậy sự vô luân của mình qua cớ là dạy triết lý.

Ngay cả người vô thần cũng lên án anh, bảo.

– Hắn là tên lang băm, lừa đảo, bịp bợm, giả danh, làm phép lạ mà thực ra chỉ là trò ảo thuật để có tiếng; và chuyện không lấy tiền là bằng chứng cho điều chúng ta nói, vì bằng cách ấy hắn lại có tiếng hơn, giả vờ là người độc đáo, nhà nhân ái và thánh nhân. Lại nữa, khi chúng ta hỏi làm sao thực hiện được những việc hắn làm, hắn chỉ tránh né và đáp, ‘Nhờ biết các luật thiên nhiên, mà không được phép tỏ bầy bí mật của chúng’, cho thấy ngay trọn câu chuyện phải là trò lường gạt mà chẳng là gì khác.

Và như thế, theo với thời gian, tuy bạn bè vẫn giữ tình thân, kẻ thù của anh gia tăng, vu khống và nói xấu đủ chuyện, tìm cách ngăn cản, phá rối anh bằng đủ mọi chước. Nhưng anh tự nhủ.

– Hạnh phúc của ta nằm trong tâm hồn, không thể bị tàn lụi do sự ngu ngốc đáng thương của bọn người phàm dốt nát này. Thế nhưng có vẻ câu chuyện của nhà hiền triết lão thành có điều tiên đoán liên hệ đến ta, và cuối cùng ta sẽ bị đuổi ra khỏi nơi đây, dong ruổi tới chỗ mà định mạng đặt để cho dù ta có muốn hay không, và chuyện sẽ đến rất sớm.

Phải, việc xẩy ra y vậy, bởi các giáo sĩ lập mưu với các y sĩ, các y sĩ với người vô thần, và cả ba nhóm đi tới chính quyền, đòi hỏi rằng tên lang băm này bị đem xử rồi bỏ tù, hoặc là bị trục xuất hẳn ra khỏi cộng đồng. Trong lúc đó bạn bè tới gặp anh và nói.

– Chúng tôi nghe là ngày mai hay mốt anh sẽ bị bắt, thành ra xin anh đi trốn khỏi thành phố ngay lúc còn ngày giờ, bởi tự ý đi thì tốt hơn là bị xua đuổi.

Nhưng Antonius nói.

– Không, tôi chịu chờ và bị bắt, vì nếu số phận muốn tôi làm khác đi thì thầy của tôi hẳn sẽ phải cho tôi hay. (Việc bị hạ bệ trong mắt người đời là điều mà bậc đạo đồ nào cũng phải gặp, và một trong những luật là họ không hề chống đỡ để bảo vệ tư cách mình. Ngay cả đấng cao cả như đức Jesus phải trải qua thử thách, và bậc đạo đồ thấp hơn như bà Blavatsky và những vị khác cũng vậy). Sao đi nữa, tôi rất tạ ơn lời khuyên của các bạn, vì nó cho tôi chuẩn bị và khuyên tôi đi chào từ giã bạn bè trong lúc còn làm được thế.

Nên cùng ngày ấy anh đi thăm nhà hiền triết Florian, biết là ông sẽ cho anh hay về chặng tiếp của con đường, vì trong thời gian anh cư ngụ tại Marbletown, ông luôn luôn là người chỉ dẫn và khuyên bảo kín đáo. Khi anh tới, nhà hiền triết già nói.

– Này con, con làm việc giỏi dang lắm, gieo nhiều hạt giống tốt trong thành phố này, mang lại được nhiều đệ tử cho Khoa học của Linh hồn; sự thất bại của con, mới xem có vẻ là xấu, sẽ mang lại kết quả tốt đẹp, vì nó sẽ loại ra đệ tử yếu ớt, tinh thần kém cỏi với kẻ thực lòng, cho thấy rõ ai thành tâm và ai chỉ theo đuôi mà sẽ bỏ đi ngay khi có dấu hiệu nguy ngập, lập tức mất niềm tin. Còn về chính con, cùng với Cynara, nay có thể đi chặng cuối của con đường, vì hai con đã có quyền đạt tới chứng đạo cuối cùng từ những vị Chân Sư mà như con biết, ngụ ở bên kia đỉnh núi tuyết phủ  xa tít ta có thể thấy qua cửa sổ này.

‘Mà hãy biết rằng đường lên núi dài và cực nhọc, nhưng hãy phấn đấu tới hết sức của con để tới đích, không bao giờ cho phép mình nghĩ đến sự thất bại. Nay con đường rõ ràng vì đỉnh núi hằng ở trước mặt con, nhưng nếu con không chắc phải tiến theo lối nào, hãy hỏi tâm trí và câu trả lời sẽ có ngay.’  

Antonius chào từ biệt ông, cám ơn lời chỉ dạy và sự sáng suốt mà ông rộng rãi cho anh, còn nhà hiền triết thì ôm lấy anh và chúc lành cho anh được bình an. Thế thì Antonius quay về nhà, và cùng với Cynara sửa soạn ra đi, không khỏi có chút buồn rầu trong tim. Anh nói với cô.

– Em có chào thầy Florian chưa, vì ai biết ngày mai sẽ ra sao ?Và cô đáp.

– Em đi ngay đây.

Nhưng vừa khi cô quay lưng để đi, đột nhiên không có gì báo trước, vị ẩn sĩ Petrius hiện ra đứng cạnh họ. Quanh ông có một vầng sáng chiếu đẹp vô tả, mắt ông long lanh nhân hậu với tình thương hằng có đó, mà nay nồng đậm và xinh đẹp không sao tả được. Một nỗi vui mừng lớn lao tràn ngập tim Antonius và Cynara, hòa lẫn với lòng quí mến và thương yêu, nên họ cảm thấy muốn quì xuống sụp lậy ngay khi ấy ở đó, nhưng ông nói.

– Ta chỉ là người phàm và tới đây do đã hứa cách đây không lâu, là khả năng nhận biết của hai con đã được khai mở, thành ra hai con có thể thấy ta gần như bất cứ khi nào con muốn.

Và rồi ông thêm.

– Giờ hãy nghe đây, vì ngày mai chính quyền sẽ đến bắt con, Antonius, nhưng ta biết con trung thành với lời hứa và sẽ không tiết lộ bí mật gì, không chống cự, hay hé miệng sự việc nhà hiền triết Florian là thầy dạy về bất cứ mặt nào; vì việc con bị hạ bệ trong mắt người đời là việc con được nâng cao trong mắt các Chân Sư, cũng như nó là dấu hiệu cho thấy nỗ lực của con ở chỗ công cộng nay đã xong, hay ít nhất là vào lúc này; nó là chuyện để con tự quyết định về sau có muốn tiếp tục hay thôi.

‘Nhưng hãy biết rằng, ai chấp nhận sự chê bai vì Chân Sư và vì công cuộc cho Nhân loại, được thưởng ngàn lần hơn như tới ngày giờ con sẽ được biết. Và nay, ta ban phép lành cho hai con cho đến khi chúng ta lại gặp nhau.

Nói xong ông biến mất khỏi mắt hai người, đột ngột như khi ông đến.  (còn tiếp)

XVIII

Sáng hôm sau, như đã tiên đoán, lính đến nhà bắt Antonius, mang anh ra tòa, có Cynara đi theo. Cô từ chối không chịu bị tách lìa anh vào giờ phút nghiêm trọng và đáng sợ như vầy. Một đám đông người có mặt ở đó vì tin đã lan khắp làm dân chúng rất đỗi hiếu kỳ, bàn tán xôn xao, thích thú có chuyện gay cấn. Nhưng về phần Antonius, anh đối diện quan tòa và khán giả với tâm trí thản nhiên, tự nhủ lòng.

– Ta sẽ dùng cơ hội này để gắng làm chuyện lành nho nhỏ, theo chân các đấng cao cả, sử dụng phương tiện xấu cho việc công chính.

Khi anh đứng thẳng với dáng vẻ thật bình thản trước mặt mọi người, vài kẻ trong khán giả thì thầm với nhau.

– Hoặc đây không phải là kẻ bịp bợm chút nào hoặc là vua bịp bợm, vì mặt ông lộ phẩm cách và sự an tĩnh giữa lúc bị tai biến.

Khi ai nấy sẵn sàng, viên chức của tòa nói.

– Người ta cáo buộc là ông làm hư hại các bà các cô trong thành phố này, với cớ là dạy họ khoa học huyền bí, gạt gẫm họ khỏi tôn giáo chân chính, và dựa vào sự dễ tin của họ, nói rằng ông tiếp xúc được với thần linh, làm phép lạ bằng cách chữa bệnh. Vì vậy, chúng ta xem ông như là mối nguy hiểm cho cộng đồng, là ảnh hưởng xấu mà chúng ta có nhiệm vụ phải loại trừ, vì chúng ta luôn quan tâm đến lợi ích của công dân.

Antonius mỉm cười và thản nhiên đáp.

– Tôi biết những cáo buộc các ông đưa ra đối với tôi, rồi thì sao ?

Quan tòa kinh ngạc, nghĩ thầm sắp mất cơ hội có trò giải trí như dự tính, bởi tù nhân không đưa ra lời chống cãi nào, nên họ nhỏ giọng hội ý với nhau, không biết xử sự ra sao; người ta nghe có tiếng xì xào trong đám đông, chứng tỏ có sự thất vọng. Trưởng tòa lại lên tiếng.

– Nếu ông không thể chứng tỏ là mình vô tội, hình phạt là phạt tù hay biệt xứ.

Antonius lại mỉm cười, trả lời với sự bình thản không mảy may xao động.

– Xin như thế, còn về việc đòi hỏi bằng chứng là tôi vô tội, trước tiên hãy chứng tỏ là tôi có tội.

Một quan tòa khác lên tiếng, đọc từ một cuộn giấy.

– Chúng ta đã gửi người đi tìm hiểu, và nghe rằng ở sinh quán của ông, ông sống đời xấu xa, ăn chơi phung phí, gây náo loạn với đủ mọi tật xấu.

Antonius thản nhiên đáp.

– Vậy ra trò khờ dại ngốc nghếch của tuổi thơ được dùng làm thước đo cho người trưởng thành à? Và theo ý các ông, người ta phải xử sự như 10 tuổi lúc chỉ mới 2 tuổi, hay tuổi hai mươi phải hành động như người ba mươi tuổi, hay lúc bốn mươi tuổi phải cư xử khi ai bẩy mươi tuổi hay sao? Bởi không phải là có sự thay đổi, cải thiện và qua giai đoạn mới, thấy ở tuổi trưởng thành cũng như ở tuổi thiếu niên à ?Sao đi nữa, tuy bản cáo trạng của ông không có bằng chứng mà chỉ là suy luận, vậy hãy tiếp tục với cáo trạng của các ông.

Quan tòa nói.

– Chúng ta nghe là phần lớn những ai gọi là học viên của ông là các bà, các cô trẻ tuổi, không phải thanh niên hay đàn ông, tự nó là điều đáng nói. Nhưng khi chúng ta biết thêm là ông không lấy tiền cho việc dạy, kéo dài một thời gian lâu khả nghi, chuyện rõ ràng là ông được trả công không phải bằng tiền, mà bằng ân huệ dưới hình thức phóng túng dâm loạn, bởi đâu có ai bỏ ngày giờ và công sức mà không đòi hỏi có gì đáp lại. Phải, đó là bằng cớ theo như cuộc đời trước của ông mà người ta biết.

Antonius bình thản đáp.

– Lại không có bằng chứng mà chỉ là suy luận, mà không nghi ngờ gì là tôi bị bất lợi, vì không thể chứng minh sự vô tội của tôi cũng như điều có tội. Vì nếu tôi có kêu gọi hết các nữ học viên làm chứng nhân, tin chắc rằng họ sẽ phủ nhận sự  hoang dâm như các ông nghi ngờ tôi, nhưng câu trả lời của các ông sẽ là ‘Các chứng nhân này không đưa ra bằng chứng gì cả, vì chắc chắn là không phụ nữ nào sẽ khai ra sự thất tiết của mình’. Thế nào đi nữa, không gì có thể làm tôi kêu bất cứ nhân chứng nào, vì làm vậy là tôi khiến tư cách của họ bị nguy hại để cứu lấy tư cách của tôi; vì  đó là việc tự nhiên của vụ này. Còn nếu được tha bổng, người ta sẽ nói, ‘Nhân chứng của hắn nói láo để lên thanh thế với người đời’.

Quan tòa nói.

– Chúng ta thấy ông không phủ nhận điều gì, còn thuận với kết luận của riêng chúng ta; mà không phải chỉ có bấy nhiêu chuyện chống đối ông thế nên bây giờ ta sẽ trưng ra thêm nhiều truy tố khác, mỗi việc cho thấy tội trạng của ông. Người ta nói rằng ông giả vờ dùng quyền năng bí mật, khai thác sự dễ tin của kẻ  ngây thơ, làm bộ chữa bệnh trong khi bệnh nhân tự họ được khỏi bệnh. Sự bịp bợm này của ông thật đáng chê trách vì nó làm y sĩ mất đi việc làm lương thiện, bằng cách chiêu dụ bệnh nhân rời khỏi các y sĩ và làm hạ giá trị y khoa đáng trọng.

Antonius nở một nụ cười nhẹ có ý chế diễu và nói.

– Khoa học cao cả là khoa học có lòng xả kỷ và cao thượng, tìm kiếm trước hết thẩy cách chữa, nếu đó là chữa bệnh, và nếu là việc khác, thì tìm cách làm người ta giác ngộ và biểu lộ Chân lý. Còn khoa học gia chân chính là người thay đổi niềm tin của mình cho phù hợp với sự kiện, mà không phải thay đổi sự kiện để phù hợp với niềm tin, như y sĩ các ông đã làm đối với tôi. Bởi, tôi có thể dùng những phương pháp mà họ không biết, nằm ngoài sự hiểu biết của họ, họ dối gạt phủ nhận những sự chữa lành của tôi, hay tìm cách giải thích cho qua thay vì trước tiên tìm hiểu, rồi nếu cần thì sau đó nhìn nhận giới hạn của mình.

Quan tòa nói một cách nghiêm khắc.

– Nhục mạ y sĩ chẳng có lợi gì cho ông đâu, mà chỉ giúp làm thấy tội của ông, vì lời khai của ông không phù hợp với sự thật. Bởi vài y sĩ đến gặp ông, xin cho biết bí mật của ông mà ông từ chối.Từ sự kiện ấy, chúng ta đi tới kết luận là chẳng có bí mật gì để khoe, vì trọn sự việc chỉ là sự bịp bợm mà không là gì khác.

Antonius trả lời với nụ cười nhẹ.

– Ai đi tìm với tinh thần đúng đắn thì chân lý và sự hiểu biết không bị giữ lại mà sẽ cho ra, cũng như ai sẵn sàng làm theo các điều kiện thiết yếu để được nhận chỉ dạy. Đầu tiên y sĩ của các ông đến với tôi hoàn toàn trong tinh thần sai lầm, và rồi hoàn toàn từ chối không tuân theo điều kiện mà tôi bắt buộc phải đặt ra. Tôi còn có thể làm gì khác hơn là xua họ ra không dạy? Bởi hãy biết rằng một số hiểu biết có thể dùng cho việc xấu cũng như việc tốt, y như lửa có thể được dùng để sưởi ấm hay thiêu hủy, và đặt hiểu biết của tôi vào tay ai chưa xứng đáng thì không những là khờ dại tột mức, mà còn là hiểm họa cho nhân loại nói chung.

Các quan tòa lại thì thầm hội ý với nhau, và người ta lại nghe tiếng xầm xì bàn tán trong đám đông.Sau một lát trưởng tòa đứng lên và nói.

– Muốn gì thì muốn, cho dù ông nói như thế mà vẫn còn cách để cho ông làm nhẹ bớt tội trạng của mình và lấy lại thanh danh, vì chúng ta tin rằng không có bí mật gì còn ông tuyên bố ngược lại (tìm cách tránh né không tiết lộ bằng cách giả vờ rằng nó nguy hiểm cho nhân loại), vậy hãy nói riêng cho chúng ta nghe, để chứng tỏ là có chúng và không lôi thôi gì nữa. Phải, nếu chúng ta thấy nó có giá trị, tư cách của ông sẽ được chứng tỏ không nghi ngờ, còn nếu chúng ta không thấy vậy thì cũng không có hại chi.

Lại có tiếng xì xào nghe rõ trong đám đông, nhưng viên trưởng tòa dẹp yên, cũng như giọng nói của Antonius trả lời làm mọi người lặng như tờ.

– Nói về tội và tư cách của tôi, những điều này chẳng có nghĩa gì đối với tôi, còn tìm cách giảm thiểu điều trước là trẻ con không đáng công; đối với điều sau, nào, lòng ham muốn có tiếng tăm tốt đẹp sinh ra do lòng kiêu hãnh và vị kỷ mà không là gì hơn. Hơn thế nữa, trong trường hợp này, để có được tư cách của tôi trong mắt thế gian là mất nó trong mắt tôi, vì như thế là chứng minh rằng tim tôi kiêu hãnh, vị kỷ và không đáng tin, và sẵn sàng gây hại cho nhân loại để có phần thưởng không có giá trị là dư luận. Thế nên tôi không sẵn sàng thuận theo điều các ông đòi hỏi, vậy hãy tiếp tục bản cáo trạng.

Quan tòa nói.

– Chúng ta có cáo buộc về ông là ông dạy thuyết lý dị giáo và mê tín dị đoan, lôi cuốn học trò xa lìa khỏi tôn giáo duy nhất chân thực, và giả vờ là tiếp xúc với thân nhân và bạn bè quá vãng của họ mà cũng biết rằng ấy là chuyện không thể có, hoàn toàn không có chứng cớ gì.

Antonius trả lời khéo léo.

– Lời của ông kết tội tôi là mê tín dị đoan, vậy mà có gì mê tín dị đoan hơn việc tuyên bố rằng không có gì là thật ngoại trừ điều có thể chứng thật, và ngược lại, tất cả điều nào được xem là không thể chứng thật đều là không thật? Vì có người con nào có thể chứng minh là cha của họ về danh tính cũng là cha trên thực tế, vì bác bỏ một sự kiện thì dễ hơn là chứng tỏ nó? Phải, xưa kia có người điên, bị cuồng trí với tư tưởng rằng cha thật của họ thì không phải là cha họ. Khi y sĩ và bạn bè trách móc thì họ phủ đầu những người này với biện luận sắc bén, thành ra mọi người bỏ cuộc, không tranh luận nữa. Vì, người điên nói rằng, ‘Tôi chỉ được nghe nói là chồng người mẹ tôi thực sự là cha tôi, mà tất cả đàn ông đều là kẻ nói dối, vậy chắc nó không đúng’.Rồi một người bạn của họ nói.

– Nhưng mẹ anh là phụ nữ đức hạnh, không phải là  người ngoại tình, ai cũng biết bà không có tình nhân.

‘Nhưng người điên có óc lý luận vững chắc rất bực bội, đáp.

– Ai có thể nói là bà có hay không có tình nhân? Vì hết mọi đàn bà nào biết suy nghĩ sẽ gặp gỡ tình nhân lén lút mà không phải giữa chợ hay trên nóc nhà. Ngoài ra, cho dù bà không có tình nhân, ai biết có ngày bà đi một mình ngoài đường, gặp kẻ bất lương hay nhiều kẻ bất lương làm nhục bà ở đó, khi đó ?

Một người bạn khác bảo.

– Nhưng chắc chắn là, bởi bà vẫn còn sống và kể lại sự việc, bà hẳn sẽ báo cho chính quyền, làm lớn chuyện, để lính được phái đi bắt giữ kẻ làm bậy và mang chúng ra trước công lý chứ ?

Người điên trả lời.

– Không có vậy, bởi mẹ tôi ngần ngại không muốn ai khác biết chuyện xấu của mình, và dù không phải vậy, cũng lo lắng chuyện chồng mình bị mất danh dự và lo buồn vì tai tiếng, sẽ cho rằng tốt hơn nên giữ yên lặng và chịu đựng bất hạnh của mình không than vãn.

‘Theo cách ấy kẻ điên lý luận, có phản đối không sao bác bỏ được cho mỗi ý kiến đưa ra, tuy cha họ thực sự là cha từ nào đến giờ. Thế thì, tuy lý luận của họ hoàn toàn hữu lý và có thể áp dụng, nhưng theo tôi chúng không đáng cho ta xem xét dù chỉ trong một giây, vì sinh ra do đầu óc điên loạn mà chẳng là gì hơn.

‘Nay đó chính là trường hợp với lý luận của các ông về tội của tôi, vì chúng cũng sinh ra do điên loạn như vậy; sự điên loạn về tội phạm như là định kiến trong tâm trí các ông. Vì như trong trường hợp của người điên, phần lớn các lý luận của các ông cũng dựa trên giả định khó mà có tới nỗi chỉ ai ngây thơ hết mức mới tin. Phải, hãy biết rằng sự dễ tin của kẻ hoài nghi thì cũng lớn như của kẻ tin tưởng, làm cái trí biết suy nghĩ bị kinh ngạc. Vì điều khác biệt duy nhất là trong khi ai tin tưởng thì dễ tin với một loại chuyện, kẻ hoài nghi dễ tin với loại khác, cho lời giải thích để bác bỏ hiện tượng, lời giải thích ngàn lần khó tin hơn chính hiện tượng.

Khi anh nói xong, có tiếng rì rào nổi lên trong số người dự khán, cho biết họ đồng ý với anh, tuy nhiên nó lập tức bị quan tòa trấn áp ngay, nhưng Antonius tiếp tục biện luận của mình hoàn toàn không nao núng.Anh nói.

– Vậy điều gì có thể được chứng tỏ, và không thể được chứng tỏ thì không phải là tiêu chuẩn cho sự thật hay điều không thật. Dầu vậy hãy biết rằng suy nghĩ có thể không thành thật như là hành động không thành thật, và ai đưa ra lời giải thích khó thể có, giả tạo về chuyện, chỉ để phù hợp với tiên kiến hay niềm tin của mình, là kẻ suy nghĩ không thành thật không chút nghi ngờ gì.

‘Theo cách ấy hết thẩy các ông đã sai lầm về tôi (và chắc chắn về những người khác); các ông có điều mà tôi gọi là đầu óc của gián điệp (hay của thám tử, luôn đi tìm tội phạm, nhìn hành vi tự nhiên vô hại lại có nét khả nghi), thấy chuyện gì lạ lùng, khác với tư tưởng của mình cũng là xấu xa, tội lỗi thay vì trước tiên đi tìm giải thích hợp lý, tốt lành hơn. Và như thế, hoàn toàn làm ngơ sự thật giản dị, thể hiện trong chữ vị tha, và là chìa khóa cho trọn câu chuyện, bởi ai tìm được hạnh phúc trong lòng cũng muốn người khác hạnh phúc giống vậy.

 

 

‘Các ông đưa ra những giả định không đứng vững được, và gán cho tôi những quyền năng, tính chất tôi không hề có. Bởi để giải thích việc không lấy tiền của bất cứ ai trong số các học trò đông đảo của tôi, các ông gán cho tôi tính trăng hoa của kẻ dâm loạn, dễ dàng quên rằng kẻ phóng túng, phóng đãng dễ được phân biệt với những ai khác, vì dấu hiệu trên gương mặt và thân hình họ do sự chơi bời quá độ.

‘Còn nói về triết lý và khả năng thông nhãn của tôi, các ông gọi tôi là kẻ bịp bợm, mà cũng dễ quên rằng kẻ bịp bợm có lý do rất tốt để lừa bịp, nghĩa là để có được tiền bạc mà tôi không ham muốn có chút nào. Chót hết, các ông nói tôi lôi cuốn học trò khỏi tôn giáo chân chính bằng cách giả vờ tiếp xúc với người quá vãng, rồi các ông nói thêm rằng đó là chuyện bất khả vì hoàn toàn không hiểu được chứng cớ. Mặc dầu thế, căn bản của hết mọi tôn giáo là gì ngoài niềm tin vào sự bất tử của linh hồn? Và nếu tôi tiếp xúc với người quá vãng để mang lại an ủi và sự giác ngộ cho thân nhân đau khổ, là tôi giúp để chứng minh cho tôn giáo mà không phải bài bác nó, và như vậy dạy học trò biết điều mà từ trước tới nay họ chỉ tin.

Tới đây lại có sự náo động nhỏ, cho thấy cử tọa có đồng ý và có một chút kinh ngạc, còn về những quan tòa thì họ nhỏ giọng thảo luận với nhau một lúc lâu, thấy bị cáo biện luận giỏi dang, hữu lý và nói trôi chẩy thật bất lợi cho tòa.

Cuối cùng trưởng tòa nói.

– Cho dù ông ăn nói khéo léo nhưng chúng ta vẫn không tin, thấy ông có ảnh hưởng xấu trong dân chúng ở đây, là kẻ phá hoại truyền thống thiêng liêng, và là kẻ xách động người khác làm theo vậy. Sau khi cân nhắc, chúng ta có ý khoan hồng, xem ông như là người điên loạn sau khi lắng nghe lời biện hộ của ông, hơn là kẻ tội phạm nặng nề. Vì vậy, chúng ta sẵn lòng giảm thiểu hình phạt một chút, là không phạt tù mà chỉ tống xuất khỏi thành phố này, không bao giờ được phép trở lại.

Antonius đáp với nụ cười nhẹ nhàng.

– Tôi hiểu bản án, và rời nơi đây chỉ với một hối tiếc, là sự buồn rầu và thương xót cho kẻ thù của tôi, những ai âm mưu làm tôi bị hại; bởi đáng tội thay, theo luật Nhân Quả mà tôi không kiểm soát được, những kẻ này không sớm thì muộn phải bị trả quả không chút nghi ngờ; sự hối tiếc của tôi không phải là cho việc tôi bị làm hại, mà cho ai muốn tôi ở lại nơi đây. Bởi hãy biết rằng, mỗi phút giây mà lỗi lầm của ta gây đau khổ cho kẻ khác, sẽ phải được trả lại bằng việc tới phiên họ bị đau khổ.

‘Việc tôi phá hủy truyền thống, tập tục và lề thói của các ông không làm thay đổi chút nào điều này.Vì truyền thống không bị tổn thương, khác với tâm người không thể làm ngơ với mọi đau khổ, nhờ đã giác ngộ và hiểu biết Chân lý. Hơn nữa, nếu tôi đi ngược lại truyền thống của các ông, tôi làm vậy vì chúng ngăn chận lòng vị tha, nhân ái và việc mang lại sự an ủi và giác ngộ cho người khác.

Rồi đột nhiên anh quay sang cử tọa với nụ cười vô cùng từ ái, nói.

– Hỡi các anh chị em, ngày mai tôi rời thành phố này mãi mãi như quí vị vừa nghe. Nhưng trước khi ra đi, quí vị có sẵn lòng dành vài phút để nghe tôi kể một câu chuyện ?

Có tiếng vỗ tay vang dội, kèm với lời kêu to.

– Phải, xin cho nghe,

vì anh đã chiếm được lòng thiện cảm và sự tán thành của đám đông, do lời hùng biện và sự nhân từ của mình. Thế nên anh bắt đầu.

– Xưa kia trong một thành phố nhỏ giữa nhiều ngọn đồi, có một người đàn ông góa vợ sống có hai con trai; ông rất say mê việc săn bắn và thể thao, giống như nhiều người trong quí vị. Ngày kia khi đi săn, ông ngã ngựa và bị thương nặng tới mức bạn bè phải dùng cáng khiêng ông về nhà. Ông thành người bệnh nặng từ đó về sau, không còn có thể đi ra ngoài, cũng không ra khỏi giường.Tuy vậy, ông không than vãn hay bực tức, làm ông thành mẫu mực cho đức hạnh nên vị giáo sĩ, thỉnh thoảng đến thăm ông, nói.

– Cảnh bệnh nhân không than vãn tự nó thực là một bài giảng vậy.

‘Nhiều năm trôi qua, hai người con trai lớn lên, dù tỏ ra biết bổn phận và yêu quí cha, ngần ngại nhưng phải để ông ở nhà một mình, vì cả hai là thương gia và phải dành phần lớn thời gian trong ngày làm việc tại văn phòng. Ngày nọ, khi bệnh nhân đã lớn tuổi, bạn bè đến viếng thăm, mang theo một cô gái diện mạo xinh đẹp và tâm tánh tốt lành. Khi thấy ông nằm đó, cô thương cảm và lo ngại cho ông nên tỏ ý muốn thỉnh thoảng tới thăm cho ông bớt cô quạnh, và săn sóc ông như là người điều dưỡng.

‘Cô làm thế, khiến cho ngày tháng của ông lão bớt quạnh quẽ và được vui hơn, chăm lo nhu cầu của ông, giúp ông được thoải mái, cho tới khi ông không thể nào không có cô. Để tỏ lòng biết ơn, và bởi vì cô tốt bụng, xinh đẹp, dễ yêu, ông lão ấy cuối cùng sinh lòng thương yêu cô và cô cũng yêu thương  ông, vì tội nghiệp và thán phục tâm hồn nhẫn nại và cao thượng của ông.

‘Khi hai người con trai, thân thiết với nhau vì là hai anh em, biết chuyện, họ nói.

– Không được, ba lớn tuổi rồi còn yêu thương gì nữa, làm mất phẩm cách hết. Hơn thế, người đời sẽ bàn tán điều thị phi, bởi ông lão có cô gái trẻ xinh đẹp, một mình ở cạnh ông cả ngày là điều trái với lề thói. Mà tệ hơn hết, ai biết là ba có thể để lại hết hay một phần gia tài cho cô, và như thế làm hai ta mất đi tài sản được thừa hưởng chính đáng? Vậy hai ta chắc chắn phải chấm dứt  tình trạng không hợp và nguy hiểm này, không chút chậm trễ.

‘Hai người có con tim cứng rắn này mới lập mưu với nhau, cấm không cho cô gái tới nhà, ra lệnh chặt chẽ cho gia nhân là không bao giờ cho cô vào nhà với bất cứ cớ chi. Kết quả là ông lão không còn hạnh phúc, và bởi ông mỏi mòn trông chờ cô, đau buồn và cô quạnh, thất vọng với tính tình cứng rắn của hai con, ông mắc bệnh nan y, bị đau ốm đủ điều cho tới khi qua đời. Chỉ vào phút chót trên giường bệnh, nhờ lời can thiệp của một vị giáo sĩ già tốt bụng, bực tức với hai người con cứng lòng và nhẫn tâm, mà ông lão được cho gặp cô gái để nói lời vĩnh biệt, và vì thế ra đi an lòng.

‘Nhưng bàn tay định mạng theo luật nhân quả tác động lên hai người con, chia cách họ như họ đã chia cách người khác. Vì người con nhỏ không lâu sau đó đi biển bị hải tặc tấn công và thiệt mạng; còn người con lớn đau buồn vì mất mát của mình, sống đời cô đơn và sầu não, vì em anh là người bạn duy nhất của anh trong đời.

Antonius ngừng một chốc, nhìn vào đám đông rồi nói.

– Nay hãy biết rằng có lúc nên theo tập tục mà cũng có lúc phải chống lại nó, như trong câu chuyện này và trong trường hợp của tôi, chắc chắn là hai người con ấy, tuy họ làm điều phải hợp với lối thông thường của đời, đã phạm tội gớm ghê với con tim; lớn lao đến mức bàn tay của định mệnh do tự mình sắp xếp đã tác động ngay không chút trì hoãn. Phải, ông lão đã bị không may quá nhiều do bệnh nan y nặng nề, mà còn làm cho ông phải đau khổ thêm, lợi dụng tình trạng bất lực của ông, là hành động nhẫn tâm, tệ hại cực độ. Vì, biết yêu và sinh lòng yêu thương không phải là tội mà đúng hơn là đức hạnh, nên trừng phạt thay vì khen thưởng nó, đối với Thượng Đế bị coi là có tội.

Và rồi anh quay lần nữa sang những quan tòa, nói thản nhiên mà mỉm cười tội nghiệp.

– Các ông, người lên án tôi, cũng đã phạm một tội với con tim nhưng hãy biết rằng tôi không phiền trách và các ông không thể gây ra cảm xúc đau đớn, hay tức tối, giận dữ  trong tôi; tội của các ông không gây hại gì cho tôi. Dầu vậy, cho ai về sau và đứng trước mặt các ông như tôi đứng hôm nay, hãy nghĩ tới điều các ông đã làm.

‘Và nay, hỡi công dân của Marbletown, xin vĩnh biệt, và cầu cho tất cả được bình an.

Lính mang anh đi ra, nhưng trong đám đông có sự la ó vang dội vì dân chúng nói.

– Ông đã bị kết tội sai lầm, ông không phải là kẻ bịp bợm mà là người thánh thiện và công chính. Không phải ông trông cao thượng và đường bệ khi đứng đó ư, không phải ông là nhà hùng biện tài giỏi sao ?

Họ bầy tỏ cảm xúc với những lời như thế cho tới khi giải tán. Nhưng Antonius bị giải trở về nhà mình, và anh được nói lời giã biệt với các học trò và thân hữu như là một đặc ân, tuy vài kẻ không đến, bỏ rơi anh ngay khi đó vì e sợ dư luận, không muốn được thấy  ở gần anh chút nào nữa. Khi mọi người tề tựu đông đủ, bao quanh anh bầy tỏ lòng yêu quí và kính phục với lời cảm động, anh nói.

– Hỡi các bạn, tuy tôi ra đi nhưng còn nhiều người khác không những có thể giảng như tôi đã làm mà còn giảng hay hơn, và có thể chỉ dẫn các bạn, truyền những bí mật mà tôi không được phép tiết lộ. Tai biến của tôi ở đây, tuy có vẻ xấu mà thực ra lại tốt, vì nó cho phân biệt học trò chân chính với học trò giả hiệu, ai vững lòng trong việc theo đuổi hiểu biết với ai nông nổi và yếu đuối.

Và họ dành trọn ngày hôm đó để thảo luận triết lý, và xếp đặt cho việc giảng dạy thêm hoặc với Petrius hay nhà hiền triết Florian; nhưng khi tới gần giây phút chia tay, vài người khóc vì lòng quí mến, biết ơn và sầu khổ do ly cách, không phải chỉ với Antonius mà luôn cả với Cynara. (còn tiếp)

XIX

 

Sáng hôm sau hai lữ khách lại lên đường, lần này là chặng chót của cuộc hành trình. Cynara nắm tay Antonius khi sóng bước với anh, gọi anh là anh hùng của cô và những tên trìu mến khác, tỏ sự mến thương, thán phục, yêu quí. Thỉnh thoảng họ cười phá lên với nhau về diễn biến của hôm qua, và đôi lúc khác lại buồn một chút vì lòng thương xót.Bởi Antonius nói.

– Nếu kết tội ai vô tội lại dễ dàng như vậy, thì cũng dễ kết tội hằng trăm người, và tuy trong trường hợp của anh nó không có ảnh hưởng gì vì anh, cũng như em, có hạnh phúc của linh hồn mà không gì có thể lấy mất đi, tuy nhiên người khác không được may mắn như thế, và có thể bị khổ sở không tả được khi bị bại như vầy.

Nhưng Cynara đáp.

– Tuy điều anh nói đúng, nhưng ngay cả ai vô tội mà bị kết tội cũng không hoàn toàn vô tội theo nghĩa của chữ, vì anh quên rằng họ đau khổ chỉ vì lỗi lầm ngày trước mà tuy họ không còn nhớ, vẫn mang lại hệ quả theo luật Nhân Quả. Thế nên, anh yêu của em, anh đã quên chính lời của mình hôm qua, và theo một nghĩa lại tội nghiệp những ai chỉ dọn đường cho hạnh phúc bằng cách trả dứt nợ cũ của họ.

Antonius hôn cô, cười và nói.

– Ồ, kẻ đầy minh triết ! em luôn luôn có sẵn biện luận để làm tan nỗi buồn của anh, em quả thật là hiện thân tuyệt diệu của sự An ủi; vì tuy nhiều người có thể làm cho tâm trí quên đi sự đau lòng, em xóa bỏ nỗi đau với sự khéo léo không sai chạy. Nhưng còn một nỗi đau nhỏ mà anh không muốn gạt mất, em có biết là gì không ?

Và cô đáp.

– Làm sao em biết được ?

Antonius nói.

– Hãy đọc tư tưởng của anh, anh tin chắc em làm được.

Nhưng Cynara đáp.

– Không, điều đó không được làm nếu không có phép của anh.

Và rồi Antonius bảo.

– Nhưng anh cho phép em.

Cynara phá ra cười, trông ngượng nghịu một chút và nói

– Tư tưởng của anh có một câu hỏi và một mong ước.

Antonius hỏi.

– Em đoán đúng rồi, thế em trả lời ra sao ?

Cynara đáp.

– Em sẽ cho anh câu đáp ở cuối chặng đường khi chúng ta quay về nhà cũ, nếu ta có quay về đó; còn bây giờ em sẽ cho anh nụ hôn thay vào, để khóa kín môi anh.

Khi nhận nụ hôn của cô xong, anh nói.

– A, nói đến nhà làm anh chợt có ao ước không ngăn được, muốn thấy Pallomides một lần nữa, người bạn thân yêu của anh. Gương mặt điềm tĩnh và đẹp đẽ của anh ấy hiện lên trước mắt anh như hình ảnh thiêng liêng, như thể anh ấy nói với anh xuyên qua không gian thăm thẳm. Ô, thực lâu quá rồi từ ngày anh gặp anh ấy lần chót trong villa của anh ấy sát biển. Và nay, cô phù thủy bé nhỏ !anh tin bằng cách nào đó em có thể làm hiện ra hình ảnh của Pallomides trước mắt anh, để làm phân tán tư tưởng của anh cho đừng hỏi nữa, có phải thế chăng ?

Và cô trả lời.

– Không, không phải vậy đâu, chắc chắn anh bạn Pallomides của anh đang nghĩ tới anh ngay phút này, và tâm trí anh tựa như tấm gương, phản chiếu lại hình ảnh của anh ấy.

Ngay khi anh vừa nói xong, hai người đi tới khúc quanh của con đường và kìa, ngay trước mặt họ là một con chó nằm đó với chân đau, tỏ vẻ khổ sở, rên lên ư ử thật tội nghiệp. Lập tức Antonius đi tới vuốt ve, con chó vẫy đuôi nhìn anh van vỉ, làm cho Antonius lại vuốt ve nhiều hơn, nói chuyện với nó mà cùng lúc xem xét vết thương. Anh thấy có một chiếc gai lớn đâm vào thịt làm đau nhức.Rồi Cynara nói.

– Anh tìm cách lấy dầm ra đi, còn em kiếm lá rịt lên, sau khi rửa vết thương cho sạch. 

Nói xong cô đi vào cánh đồng gần đó, mang theo một cái nồi nhỏ trong gói hành lý của cô để lấy nước về từ suối róc rách trên núi xuống. Về phần Antonius, anh bẻ một chiếc gai nhọn trên bụi cây bên cạnh và nói êm ái với con chó, trong lúc bắt đầu lấy dầm ra.

– Này chú nhỏ, dùng gai này để lấy gai khác ra, lấy độc trị độc ấy mà.

Con chó rên rỉ, sủa lên, ngọ nguậy, nhưng mà nó hiểu và biết ơn. Khi lấy được gai ra rồi, con chó vẫy đuôi, liếm tay ân nhân cho tới khi Cynara quay lại với chiếc lá và ít nước trong nồi. Cô rửa vết thương, xé mảnh vải trong gói hành lý và băng lại với chiếc lá nằm trên vết thương.Cô nói với Antonius.

– Ta không thể để đứa em nhỏ này chết đói trên đường, cách xa nhà cửa. Phải mang nó theo với chúng ta, để nó không bị vô gia cư, đi lạc và rồi mất tích.

Nói xong cô nhẹ nhàng bồng con chó lên tay và mang nó theo. Đến chiều, sau chặng đường dài leo núi, ba khách lữ hành đến một ngôi làng nằm trên sườn núi. Trên mặt đất có tuyết vì nơi đây ở cao trên núi và đang là mùa đông, nên họ vừa lạnh, vừa đói mà cũng mệt mỏi; con chó cũng không nhẹ gì khi phải mang một chặng dài. Họ chỉ thấy một nhà khách xiêu vẹo, chỏng chơ bởi không có mấy khách trọ tới chỗ hẻo lánh này, nhất là vào mùa đông.Tuy vậy họ có được thức ăn, nước uống và bếp lửa với khúc củi cháy reo vui, mang lại sự ấm áp. Ông chủ quán tỏ ra ân cần và tốt bụng với khách, mà cũng đầy thắc mắc muốn biết có chuyện gì làm họ đến chỗ thâm sơn cùng cốc này, và vào thời điểm trái mùa như vậy. Để trả lời thắc mắc của ông, Antonius nói.

– Ông bạn này, chúng tôi đi tìm một tu viện nằm gần hay trên đỉnh núi này, nên sáng sớm ngày mai chúng tôi sẽ lên đường không chậm trễ.

Ông chủ quán già tốt bụng ấy đưa tay lên tỏ vẻ kinh sợ và nói.

– Quí vị không lên được tới đỉnh núi đâu, và lại trong mùa đông, rồi một trong hai vị lại là phụ nữ. Ngoài ra, quí vị muốn gì với những tu sĩ lạ lùng trên đó, người ta đồn rằng họ luyện đủ thứ phép thuật và theo chúng tôi biết, không hề nhận khách nào tới thăm.

Antonius trả lời.

– Dù vậy chúng tôi vẫn sẽ đi, chắc chắn đó là nơi chúng tôi muốn tới trừ phi chết trên đường.

Ông chủ quán vặn vẹo tay, nói.

– Khổ chưa, khổ chưa, chắc chắn quí vị sẽ phải bỏ mình trong tuyết hay rơi xuống vực, hay chết lạnh và mệt mỏi. Như thế, chỉ vì khờ dại mà hai vị gặp cái chết, mất dấu trong đời.

Antonius nói.

– Này ông bạn, không phải thế đâu vì chúng tôi hết sức mạnh mẽ, đầy sinh lực, nên không có gì phải sợ, và chớ lo lắng gì cho hai chúng tôi.

Nhưng người chủ quán trả lời.

– Hai vị trẻ trung, đẹp đẽ thế này mà lại thành xác chết lạnh cứng nằm trong tuyết, không mắt người trần nào nhìn ngắm được quí vị nữa, chỉ có sao trên trời là còn thấy hai vị thôi.

Antonius nói.

– Ông có quả tim thật nhân từ, trời Phật sẽ thưởng cho lòng thiện cảm và nỗ lực tốt lành của ông ngăn không muốn chúng tôi theo đuổi chuyện của mình. Nhưng lòng nhân từ của ông khơi dậy lòng nhân từ của chúng tôi đối với ông, và bởi chúng tôi sẽ không đổi ý, xin ông xuống hầm rượu lấy chai rượu ngon nhất để ta cạn ly, xua đuổi sự buồn rầu.

Gương mặt của ông lão tốt lành ấy sáng lên, và cám ơn Antonius, ông lệt bệt ra khỏi phòng đi lấy rượu. Khi ông đã khuất, Cynara nói.

– Anh thấy chăng, các vị bên Tả Đạo lại ra công ngăn cản chúng ta, mà lần này họ làm một phần xuyên qua lòng lành, sự tốt bụng và dạ ân cần, dùng ông lão dễ mến này cho mục đích của họ, thay vì kẻ tán gẫu và quan tòa không công minh và ai tương tự như khi trước. Quả thật người tốt lành cũng như người ác có thể được dùng cho mục đích xấu, nhưng như anh nói, ông bạn của ta sẽ không gặp việc không hay nào cho ông, bởi ông không có ý định xấu. Nhưng ông với sự tốt lành của ông thì không giống như nước trong sạch của giòng sông, vừa làm lành là giúp nhiều người đỡ khát mà cùng lúc ngăn không cho lữ khách theo đường của mình, và do vậy làm điều xấu ?

Antonius cười với người yêu đầy vẻ thương mến.

– Nhưng, anh nói, này cô gái giảng luân lý, lần này thí dụ của cô nó hơi thiếu sót, vì các vị Tả Đạo có dính dáng chi đến giòng sông ?

Cynara trả lời.

– Họ xếp đặt để xui khiến lữ khách tới chỗ không có cầu, không có chỗ nông, hay chỗ có giòng nước chẩy xiết mà người ta sợ không dám lội qua.

Thế nên Antonius phá ra cười.

– Em nó lý lắm, nay anh chịu phạt bằng cách đền em một chiếc hôn.

Và rồi, khi sắp tới giờ đi ngủ, Antonius tham thiền và sau một lát thấy Petrius đứng bên cạnh, sáng rỡ đầy nét thương yêu. Vị ẩn sĩ nói.

– Này học trò của ta, con làm khá lắm và hôm qua con đã gieo nhân lành, biến phiên xử của mình thành bài giảng cho lợi ích của dân chúng, biện hộ cho mình mà làm như không biện hộ chi, không tiết lộ bí mật nào theo như luật lệ của chúng ta. Nay, để thưởng lại, con sẽ du hành tối nay trong lúc thân xác say ngủ nhưng linh hồn con vẫn giữ tri thức, đi vào những vùng có nét diễm lệ và sự Bằng An không tả được. Thế nhưng hãy cẩn thận kẻo con tự bảo mình, ‘Nỗi hoan lạc này quá đủ, ta nó cần phải đi xa hơn để đối mặt với thử thách cuối cùng và to lớn nhất ?’ Bởi hãy biết rằng, trước khi tới được Điểm Cùng, trong tim người sẽ luôn luôn có mối Bất mãn Thiêng liêng, hằng thì thầm ‘Bấy nhiên vẫn chưa đủ’, vì chỉ khi tới Điểm Cùng mà sự Bằng An mới trở thành Tâm thức Vĩnh cửu Tuyệt đối, không hề thiếu vắng trong tâm nữa. Vì vậy, như ta đã nói, hãy cẩn thận và xin chúc lành cho con !

Đoạn Petrius đột nhiên mất dạng. Vậy đêm hôm ấy Antonius có thân xác chìm vào giấc ngủ say mà tâm thức của linh hồn ở trong tình trạng không thể tả được. Đến sáng anh thức giấc, dụi mắt, tỉnh táo theo cách chưa hề cảm thấy trước đây, mà cùng lúc cảm thấy như thể anh trở về nhà tù, hay một trạng thái mơ màng hơn là đời sống tỉnh thức. Khi anh dậy và thay y phục rồi cùng Cynara ăn sáng, anh nói.

– Em yêu, tối qua trong lúc ngủ anh cùng với em ở trong cõi có sự hoan lạc không sao tả xiết, đầy ánh sáng và mầu sắc, không bút mực nào nói cho hết. Nay, nói anh nghe, em nó nhớ lại trạng thái tuyệt vời như thế chăng ?

Cô đáp.

– Có, mà em không thể tả cho anh về trạng thái ấy, vì như anh nói, ngôn từ không sao mô tả tình trạng vượt ra ngoài hết mọi kinh nghiệm có thể có trên đời. Nhưng em có thể nói để anh biết điều này, là tâm thức cõi trần có vẻ như ở chỗ mù mờ, không thật và là ảo mộng so với trạng thái mà hai ta vừa trở về. Nay em hiểu trọn vẹn vì sao các nhà huyền học và triết gia ai cũng mô tả sự xuất thần và mặc khải ngất ngây, bằng những ngôn từ khác nhau và đối nghịch nhau, khiến ai chưa kinh nghiệm phải chỉ trích và nghi ngờ; bởi các nhà huyền học ấy, khi cố gắng mô tả điều không thể mô tả, đã phải dùng thí dụ quá đáng, cực độ như nói rằng đường phố dát vàng và ngọc quí, là điều không có trong thực tại. Đó chỉ là nỗ lực yếu ớt nhằm cho ý niệm nào đó về sự sáng chói rực rỡ, lộng lẫy là tính chất của những cõi cao như vậy.

Antonius nói.

– Em yêu, em còn muốn tiếp tục lên đường chăng sau khi đã kinh nghiệm những điều vừa qua ?

Cynara đáp.

– Có, và ngay phút này.

Hai người cụ bị hành lý với thức  ăn và nước uống, vì trên đường không còn làng mạc nào, và để lại con chó cho người chủ quán tốt bụng, vẫn tiếp tục can ngăn xin họ ở lại. Họ lên đường giữa không khí lạnh sắc, nhưng con chó, do lòng biết ơn, sủa và rên rỉ, ráng tìm cách thoát khỏi cánh tay kềm giữ của người chủ mới khi thấy họ ra đi, và họ vẫn còn nghe tiếng nó rên rỉ khi đã bước xa. Antonius nói.

– Anh mừng là không mang con vật đáng thương ấy theo, bởi sợ rằng nó sẽ chết vì lún tuyết. Nay, con chó nó nghĩ  thầm  (nếu có thể nghĩ được mà anh không nghi ngờ chuyện đó) ‘Con người thật lạ kỳ, phút này đầy lòng tử tế mà phút sau không tử tế chút nào, khiến lòng mình đầy tình thương họ vì một hành vi nhân ái, rồi sau đó quay lưng bỏ lại mình đằng sau’.

Cynara đáp.

– Và không phải chỉ có chó mới suy nghĩ như vậy về chủ của mình, mà con người đối với thiêng liêng cũng tương tự vậy. Khi gặp may thì họ nói ‘Trời thật tốt lành’, rồi khi gặp chuyện không may thì họ nói ‘Trời bỏ ta rồi’, mà không hề nghĩ là chuyện sau là cách biểu lộ lòng lành của Thượng Đế y như chuyện trước. Không, mà còn hơn thế nữa, ngay cả việc anh bỏ lại con chó là sự thể hiện nhiều hơn lòng tốt của mình, còn hơn là mang có theo để bị chết trong tuyết. Mà lý do cho việc con người không hiểu được Thượng Đế thì không phải kiếm đâu xa, vì lỗi lầm của họ nằm trong sự kiện là xem mọi chuyện chỉ một phần thay vì trọn sự việc, cho là phần này xấu và phần kia tốt, và luôn hỏi là tại sao chuyện như vậy. Người chưa hiểu biết luôn sẵn sàng trách móc Thượng Đế và luật trời, thay vì tự trách móc mình, quên rằng điều gì Trời định thì họ cũng vẫn thấy có lỗi lầm và cho là sự việc có thể được sắp xếp thuận lợi hơn.

Antonius bảo.

– Quả thật thực hành làm em ăn nói hùng biện, mà đó là em không đọc hay đọc ít sách. Sự thật càng lúc càng rõ là lời hùng biện và hứng khởi đến từ con tim mà không phải đầu óc.

Trong lúc anh đang nói, đột nhiên họ nghe con chó ráng sức chạy tới chỉ với ba chân băng qua tuyết. Cynara nói.

– Xem kìa, anh thua rồi, con vật trung thành đã dứt dây buộc và thoát ra.

Rồi con chó chạy tới, vẫy đuôi nhẩy lên xuống tới lui, ban đầu quanh Antonius rồi sau đó quanh Cynara, khịt mũi, hân hoan mừng rỡ nên hai người không có lòng nào muốn đuổi nó về.Cynara cười và nói.

– Xem nào, con chó này trung thành với chủ của nó còn hơn là con người với chủ của mình. Nó nói ‘ Dù chủ có vẻ muốn bỏ rơi ta nhưng ta sẽ không bỏ rơi họ’.

Cô vuốt ve bộ lông xơ xác lơ thơ của chó và hôn lên đầu nó. Thế nên nay ba người bì bõm đi suốt ngày trong tuyết, với ánh nắng mặt trời chiếu sáng lóa làm chói mắt, nhưng lòng họ hớn hở. Đường lên dốc rất khó nhọc, chốc chốc Antonius phải tìm lối đi.Quanh họ tứ bề lô nhô cơ man là đỉnh núi trắng với thung lũng mầu nâu và xanh nhuộm mầu trời và bóng mây, còn không khí trong trẻo như rượu champagne hảo hạng.Nhưng  chiều xuống thì trời bắt đầu lạnh như đá, mặt trời chìm dần như vầng tròn lớn đỏ tía, từ giã trái đất, bỏ đi để lại nó như quả tim không còn tình thương, hơi ấm và sự vỗ về cùng mọi điều làm duy trì sức sống. Antonius nói.

– Ta không còn thấy đường nữa, mà cũng quá mệt không thể đi xa hơn, vậy ta phải dùng tay đào hố trong tuyết để tạm trú qua đêm, tránh gió và ngơi nghỉ. Mà chúng ta không được phép ngủ quên, bởi  trong tuyết có nghĩa không bao giờ thức dậy nữa.

Họ làm như anh nói, rồi nghỉ một lúc lâu cho tới khi mặt trăng lạnh lẽo nhô lên, tỏa ra ánh sáng mờ ảo trắng nhạt, trông giống như mặt nạ treo nghiêng trong vòm trời xanh thăm thẳm. Họ cặm cụi đi thêm mấy tiếng đồng hồ, càng lúc càng khó khăn cho tới khi rã rời hết sức, họ bắt buộc phải đào hố trong tuyết và nằm xuống tránh gió.Họ trải qua trọn đêm như vậy, mỗi giờ trôi qua lại càng thêm khó khăn, tới cuối họ tưởng như phải chết.Nhưng cuối cùng khi mặt trời mọc thì họ cũng dậy theo, lại bắt đầu cuộc leo núi  cực nhọc. Con chó càng lúc càng yếu và mệt mỏi quá nên Antonius phải mang nó lên vai cộng thêm với sự mệt nhọc của mình, vì anh nói.

– Thà anh chết còn hơn là bỏ rơi nó cho chết.

Nhưng Cynara nói.

– Chẳng bao lâu nữa anh sẽ phải bỏ lại cho em và nó chết, vì chỉ một lát nữa thôi là em sẽ không còn đi nổi nữa.

Anh nhìn cô lo lắng hết sức, thấy cô hốc hác và đau ốm, nên tim anh gần như muốn khóc vì xót thương và vì yêu mến. Anh ráng  thúc đẩy cô bằng những lời gợi hứng, nói rằng đường đi sẽ không gian nan hơn nữa bởi họ đã trải qua một chặng dài, nhưng thời gian trôi qua, sức lực cô càng lúc càng kiệt và cô không thể tiến thêm. Tới cuối, mặt trời lại chìm dần lần nữa và đêm lạnh giá phủ lên địa cầu, cô quị xuống, hoàn toàn không sao có thể bước thêm bước nữa.

Antonius tuyệt vọng hết sức, không biết phải làm gì vì quay về chỉ vô ích và thiệt mạng y như tiếp tục đi tới; còn mang cô trên tay thì không thể được, bởi sức lực của anh cũng đã mỏi mòn. Anh bắt đầu xoa hai bàn tay của cô, rồi gương mặt cô, sang tay chân, ôm cô vào sát người anh, thì thầm lời êm ái, còn con chó nép sát vào hai người, bầy tỏ tình thương mến và liếm mặt với bàn tay cô với hết sức mà nó có thể có được khi quá đuối rồi. Cynara thều thào.

– Anh đi một mình đi, anh yêu, để em nằm ngủ, vì nay em biết các Chân Sư muốn nói gì, và việc đạt tới mục đích của em không phải là ở trong thân xác này, mà là bên kia cửa tử.

Antonius trả lời, hôn cô với trọn tâm hồn mình.

– Vậy thì cho anh sự thành đạt cũng là bên kia cửa tử, vì  anh không thể rời em lúc này, cho dù có được cả thế giới.

Cô bắt đầu van lơn, năn nỉ với trọn chút hơi tàn sắp mất, nói.

– Làm sao em có thể vui sướng được khi biết anh thất bại vì em ?

Và anh đáp.

– Chết với em là thành công mà không phải là thất bại, vì anh thật sự tin đây là thử thách sau cùng, thử thách chót của con tim là từ bỏ sự sống để chúng ta có lại được nó trong thực tại, và ra khỏi thân xác ngục tù là được tự do mãi mãi.

Cô trả lời thều thào.

– Không đâu, vì anh vẫn còn sức để đi tới đích trên đời, có lẽ các Chân Sư định rằng cái chết dành cho em mà không phải cho anh.

Cô lại cầu xin anh tiếp tục đi, để lại cô nằm ngủ trong tuyết.Bỗng tiếng cô ngưng bặt và mắt nhắm lại, gương mặt trắng bệch mầu chết chóc, và Antonius áp môi anh vào môi cô, bất động vì đau đớn căng thẳng, không cảm thấy có hơi thở nào.Anh kêu to vì tuyệt vọng.

– Không còn gì trên đời cứu được em nữa sao? Thầy của chúng ta đâu? Hạnh phúc của lòng anh đâu ?

Trong một chốc anh nức nở mà tưởng như mấy giờ đồng hồ, vật vã, tự nhủ lòng.

– Nay ta hoàn toàn bị bỏ rơi và cô độc. (Nỗi thống khổ này xẩy ra trước việc thành đạt có ghi trong mọi  sách vở huyền học).

Nhưng con chó trung thành liếm tay anh, ép miệng vào mặt anh, nép sát hơn nữa vào người Antonius, xong rên rỉ, vẫy đuôi, kêu to và liếm nữa, ép gần thêm để tỏ thiện cảm và an ủi, mỗi hành động đều sâu đậm như sự đau lòng của chủ nó. Đột nhiên nó ngưng lại, ngẩng đầu vểnh tai lắng nghe, và rồi nó sủa, đánh hơi và sau hết, trong một lúc làm như nó hết còn sự mệt mỏi mà gấp gáp chạy nhốn nháo bằng ba chân, mất dạng sau một khối tuyết lớn đứng tựa như tháp canh ở bìa dốc núi.

Antonius bỏ tay che mặt xuống, nhìn lên thắc mắc; lập tức đằng sau khối tuyết có hai bóng người cao lớn xuất hiện, với con chó nhẩy lăng quăng quanh chân và sủa bên cạnh họ, như muốn giục họ đi nhanh hơn. Hai người mặc y phục lạ lùng của tu sĩ, mầu sậm, có râu dài nhọn ở cuối, tuy Antonius quá choáng ngợp và không để ý gì khác trừ chuyện ấy là hai người đàn ông. Nhưng khi họ tới gần, anh nhận ra y phục của họ và biết ngay đây là các tu sĩ thuộc nhóm Huynh Đệ, vì trăng nay đã lên cao, chiếu sáng họ với ánh trăng nhạt. Khi họ tiến lại gần sát, lòng đau khổ quá sức nên anh sấp mình dưới chân họ và kêu to.

– Ồ, các Thầy, các vị đến trễ quá, và người yêu của con đã chết rồi.

Một trong hai người, kẻ cao nhất và uy nghi nhất, đỡ anh lên với sự dịu dàng của người nữ, nói bằng một giọng êm đềm vô tả và khuyến khích.

– Không đâu, anh bạn của tôi, cô chỉ mới ngất đi mà thôi.

Lập tức người kia lấy ra một ve nhỏ có chất nước sậm mầu, nâng đầu Cynara lên, mở miệng cô và chế thuốc vào miệng. Một lát sau, lúc Antonius ngây người nhìn căng thẳng và hy vọng, cô mở mắt ra. Khi ấy cũng tu sĩ đó nhấc bổng cô lên tay như thể cô chỉ là đứa trẻ, và nói.

– Tôi sẽ mang cô về, đứng ở đây lâu không tốt, còn anh ráng theo tôi ngay khi nào anh đủ sức.

Đoạn ông quay người bước đi.Nhưng Antonius loạng choạng nói.

– Tay chân con không cử động được nữa, đầu con rối mòng và con hoàn toàn kiệt sức.

Vị tu sĩ cao quì xuống cạnh anh, xoa bàn tay anh một lát và mỉm cười thương mến. Ông nói.

– Nỗi gian nan của anh đã qua rồi, anh bạn à, nay anh đã qua thử thách gay go nhất mà không bị gì khác hơn là thể xác kiệt quệ, nhưng nó sẽ mau sớm hồi phục. Giờ xin hãy uống thuốc này, có sẽ giúp anh tỉnh lại hơn bất cứ  thuốc gì đã làm anh tỉnh trước đây.

Nói xong, ông lấy ra một ve thuốc kề vào môi Antonius.Anh uống lấy, ngả đầu vào lòng vị tu sĩ như đức trẻ được dỗ dành. Rất mau sau đó anh bắt đầu cảm thấy tươi tỉnh và mạnh trở lại, mọi cảm giác đau ốm và chóng mặt như có phép mầu biến mất đi, còn tâm hồn thấy được nhẹ nhõm không sao tả được, sâu đậm tới mức anh gần như muốn kêu to lên vì vui sướng, tràn lan vô bờ y như một phút trước đây anh sầu khổ khôn xiết. Thay vào đó, mãi lát sau anh nói.

– Nay con sẵn sàng để đi, mừng là có thể bước đi được nữa, y phục đã đông cứng lại và sợ là không tới chỗ được, con hy vọng không xa đây lắm.

Vị tu sĩ nói.

– Không, nó rất gần đây, chỉ một lúc ngắn là ta sẽ tới đó.

Nói xong ông đứng dậy, nhẹ nhàng nâng Antonius đứng lên theo và hai người bước đi ra xa. Nhưng khi họ mới đi được vài bước, thình lình Antonius ngưng lại và hỏi.

– Còn con chó, sao nó không đi theo ?

Anh nhìn quanh thấy con vật trung thành nằm bất động trên tuyết. Anh nói với tình thương chan chứa trong lời.

– Ôi, nếu người bạn thân mà chết đi thì tim con hẳn sẽ vô cùng thương tiếc, mà có lẽ nó chỉ mê man thôi, có thể làm tỉnh lại được.

Lập tức anh quay lại quì xuống cạnh con chó, vỗ rồi xoa nhẹ, tìm cách làm nó tỉnh dậy nhưng chỉ hoài công. Anh nói với vị tu sĩ.

–  Xin thầy cho con thần dược để con chó bất hạnh này tỉnh lại.

Vị tu sĩ trả lời.

– Sao, đem phí thuốc quí báu của ta chỉ để cho con chó không đáng ư ?

Antonius kêu lên.

– A, phải chi con đừng uống nước quí giá đó thì con vật đáng thương này có thể được phần thuốc ấy rồi.

Vị tu sĩ nói.

– Anh rầu rĩ làm chi đối với con vật không còn bị đau đớn, bất tỉnh, và do đó an vui ?Hơn nữa, nấn ná ở đây không tốt, vậy hãy đi tới nơi ấm áp, tiện nghi và lại có người yêu đang chờ đón.

Antonius kêu lên.

– Tôi sẽ không đi và rời bỏ con chó trung thành đáng thương này cho tới khi nào tôi biết là không còn cứu vãn được nữa, và nếu ông không đưa lọ thuốc của ông, tôi sẽ mang con chó đến tu viện để xem có thể sưởi ấm làm nó hồi phục được chăng, bởi chắc chắn là tôi sẽ không để nó chết trong tuyết.

Vị tu sĩ đột nhiên đổi giọng nói, có vẻ tán đồng, dịu ngọt và thương yêu.

– Người huynh đệ, anh quả đã học được lòng từ chân thật (lòng từ bi chân thật được tả đẹp đẽ trong chuyện Mahabharata, xoay quanh một con chó mà Arjuna không chịu bỏ rơi), nay tôi thấy đường tiến hóa của anh đi theo đường Từ Bi, và anh thích hợp làm Người Phụng Sự cho Nhân Loại. Nhưng sao đi nữa tôi cũng sẽ cứu con chó trung thành của anh, không phải chỉ vì anh mà còn vì tình thương cho một huynh đệ trẻ trên đường tiến hóa.

Ông lại lấy ra ve thuốc nhỏ làm hồi sinh, cho con chó chỉ còn thoi thóp uống thuốc nước quí giá, rồi nhẹ nhàng bồng nó trên tay mang về nhà.

XXI

Antonius và người tu sĩ, tên Pasimunda, thay vì đi lên đỉnh núi, lại đi theo dọc theo phiến đá de ra một khoảng cách xa bên dưới đỉnh. Và rồi họ đi vòng sang bên kia núi. Ở đó, không xa lắm là một thung lũng kín gió với tu viện lộ rõ dưới ánh sáng trắng của mặt trăng, những cửa sổ chiếu ra luồng ánh sáng vàng nhạt nhuộm mầu tuyết. Pasimunda nói.

– Hãy nhìn chỗ chúng ta sẽ đến, trông nó giống như hiện thân của sự mời chào phải không, với hết mọi cửa sổ sáng rực như trong lễ hội? Và nếu nhìn ra xa, anh sẽ thấy ánh đèn của một ngôi làng lấp lánh trong tuyết phủ trắng chung quanh, bởi chúng ta không bị cô lập nhiều như anh nghĩ đâu; và ai biết đường có thể trở ra thế giới bên ngoài không khó chút nào, như anh sẽ thấy khi tới lúc anh phải quay về.

Antonius trả lời.

– Quả thật bây giờ nhà của tôi là cả trái đất, tôi cảm thấy mình không còn là cư dân của riêng một thành phố nào, hay là chủ nhân một ngôi nhà nào. Tuy nhiên sẽ có ngày tôi vui sướng trở về nhà riêng của mình để hội ngộ với người bạn mà tôi yêu quí. Bởi chẳng những tôi yêu quí anh mà còn nợ anh một ân nghĩa khó lòng đền đáp.

Pasimunda hỏi.

– Họ đã giúp anh ra sao ?

Antonius trả lời.

– Người ấy đã mở mắt cho tôi về Khoa học Vĩ đại, và tuy anh cho tôi mượn vài quyển sách và nhờ vậy làm tôi sinh lòng ưa thích, nhưng nếu không nhờ anh và hành động tốt bụng của anh, hẳn tôi sẽ phí trọn cuộc đời mình.

Pasimunda bảo.

– Chỉ người khôn ngoan mới biết hệ quả khôn lường ra sao sinh ra từ hành động tốt lành tầm thường nhất; và tôi nghĩ rằng chẳng bao lâu anh sẽ thấy món nợ còn lớn hơn anh tưởng. Nhưng nay, hãy bước cẩn thận, vì đường đi xuống rất dốc và mặt đất trơn trợt, coi chừng kẻo té.

Một lát sau, chót hết Antonius tới điểm cuối của cuộc hành trình. Khi vào tiền phòng rộng lớn của tu viện có đèn sáng và lò sưởi của cháy đỏ rực, Cynara đi ra ôm chầm lấy anh thật lâu và nồng nhiệt. Và con chó, nay đã lại sức hẳn, phóng khỏi tay Pasimunda, nhẩy tung tăng quanh ông bà chủ của nó, còn những người trong tu viện, đang tụ lại chờ bữa ăn tối, đứng quanh nhìn, mỉm cười với ánh mắt hiền lành thật tuyệt vời.

Một trong các tu sĩ dẫn Antonius đến phòng của anh.Antonius thấy mọi việc đã được sắp xếp cho anh có tiện nghi và nghỉ ngơi. Anh được giục hãy nhanh chân vì cơm tối đã sẵn sàng. Thế nên anh tắm rửa, mặc quần áo khô đã để sẵn, làm mọi chuyện mau lẹ vì rất đói bụng sau chuyến đi dài chỉ ăn sơ sịa. Sau cùng anh đi dọc theo hành lang dài ra phòng ăn, tự nghĩ.

– Ta có cảm tưởng như đang đứng bên bờ một chuyện ngạc nhiên vui vẻ rất lớn, mà không biết đó có thể là gì, bởi chắc chắn là đã hết rồi những chuyện gì bất ngờ, ngoại trừ cõi tinh thần là vô giới hạn, và chỉ có được trong tâm hồn ta, không phải từ ngoài mang đến.

Khi ấy, anh đi tới khúc quanh trong hành lang, thấy cửa phòng ăn mở rộng và kìa, đứng sâu một chút bên trong cửa và đang nói chuyện với Cynara là Pallomides. Ngay sau đó họ ôm choàng lấy nhau với sự hân hoan vỡ òa của hai linh hồn xa cách đã lâu nay tái ngộ, Antonius nói.

– Tôi không hề mơ tưởng là chén hạnh phúc của tôi được tràn tới miệng như vầy, hình ảnh không ngờ của anh, hỡi bạn thân, đã mang lại mọi chuyện mà không gì khác trên đời làm được vậy. Nhưng kể nghe coi, làm sao anh tới đây ?

Pallomides cười êm nhẹ và bảo.

– Nào, chỗ này là nhà tôi cũng như căn villa xa kia cạnh biển.

Antonius kinh ngạc hỏi.

– Vậy anh cũng là người thuộc nơi đây ư, từ hồi nào? Mà sao anh không đi cùng với tôi khi tôi hỏi anh ?

Pallomides lại cười nữa và đáp.

– Có gì đâu, tôi đã đi con đường anh vừa trải qua nên không cần có lại cuộc hành trình ấy nữa, nhất là cho anh thì điều ấy không nên.

Đột nhiên Antonius đoán ra sự việc, do nhớ lại lời của Pallomides. Nên anh nói với lòng thương yêu và kính cẩn.

– Thưa Thầy, con có được mọi chuyện là nhờ thầy, nay con tin thầy là người đã gửi nhà hiền triết già giả dạng làm ông lão hành khất để thúc giục con tìm Đạo, và thầy hằng là bàn tay bí ẩn sau mọi chuyện, hướng dẫn con đến các vị huấn sư khác nhau.

Thình lình có tiếng chuông reo báo hiệu giờ ăn tối nên thay vì trả lời, Pallomides chỉ mỉm cười, thân ái dẫn học trò mình tới bàn ăn mà ông ngồi đầu bàn, đặt Cynara ngồi bên mặt của mình và Antonius bên trái, còn những tu sĩ khác ngồi dọc hai bên bàn. Cuộc chuyện trò ở bàn ăn diễn ra vui vẻ, nhẹ nhàng, tiếng cười của các tu sĩ vô tư lự vang lên như âm nhạc rót vào tai của hai người khách mới đến. Antonius thầm nghĩ.

– Bậc Cao Cả mới khiêm tốn làm sao, nay rõ ràng Pallomides là Viện Trưởng của tu hội này, bởi ông ngồi ghế danh dự, vậy mà trong bao năm ta quen biết ông, chớ hề nghe ông thốt lời nào về chuyện quan trọng như thế.

Khi bữa ăn đã xong và các tu sĩ đã tản mác, chỉ còn lại Antonius, Cynara và Pallomides, Antonius nói.

– Thưa Thầy, xin cho chúng con hay mọi chuyện có nghĩa chi, vì tuy con đoán được ít nhiều nhưng con rất mong được nghe hết sự thể từ chính miệng ngài.

Pallomides đáp.

– Hỡi bạn, xin đừng gọi tôi là Thầy và tôi xin nói hết những điều hai bạn muốn biết, vậy hãy biết là cuộc hành trình của hai bạn đã xong, tuy thực sự diễn ra trong thực tế nó là biểu tượng cho cuộc hành trình của linh hồn tới Minh Triết Thiêng Liêng, và cũng là cuộc hành trình của thân xác tới việc thành đạt ấy. Và tuy có thể chỉ dạy hai bạn trong căn villa của tôi cạnh biển, nhưng nếu không có cuộc hành trình và những khó khăn của nó, kinh nghiệm cay đắng trên đường, chỉ dạy của tôi sẽ không cho thành quả hoặc cao lắm là sẽ cho kết quả muộn màng. Vì con đường dài thường tới cuối hóa ra là con đường ngắn nhất, và dạy người khác (như bạn đã làm, Antonius, ở Marbletown) là ta học hỏi, lý  do là công đức thu thập được sẽ cho phép mở cánh cửa dẫn tới thêm hiểu biết.

‘Nay, ở chỗ trên cao này nơi không khí tinh khiết, không nhiễm làn rung động thiếu trong sạch của tư tưởng trong thành phố, hai bạn có thể tiến theo cách khó mà được ở nơi khác. Tuy có đường dễ lên đây mà tôi và các tu sĩ dùng, con đường khó nhọc hơn lại cần cho hai bạn như là thử thách và kinh nghiệm để thanh tẩy con tim, như bây giờ hẳn các bạn đã tự mình nhận thức.

‘Sao đi nữa, điểm chót cùng của cuộc hành trình là nhà riêng của hai bạn, bởi ở lại đây luôn không lợi ích gì, mà có những điều cần làm để mang lại sự tốt lành cho thế giới. Và việc trở về nhà cũng là biểu tượng y như là sự việc thật, vì giống như khi ấy bạn đã làm xong cuộc hành trình vòng vo thì nhân loại cũng thế, đi tìm hạnh phúc vàhiểu biết sau rốt học được rằng chỉ có thể tìm thấy chúng trong tâm.

Antonius nói.

– Con đọc nhiều trong sách của thầy nói về những năm tranh đấu nhọc nhằn, thiếu thốn đáng sợ là điều cần thiết để đạt tới việc thành đạo, nhưng khi con nhìn lại, ngoại trừ nỗi đau khổ cuối cùng, khi con tưởng như mất tất cả, trọn câu chuyện xem ra không tệ cho lắm.

Pallomides nói.

– Hỡi bạn, hãy biết rằng việc đi lên của bạn không bắt đầu trong kiếp này, như chẳng bao lâu bạn sẽ thấy khi có trở lại ký ức của những kiếp qua; và tuy ở khởi đầu của kiếp này bạn đắm chìm trong sự hoan lạc của giác quan, thấy có vẻ xa vời và hoàn toàn không tương ứng với đường Đạo, nhưng vẻ ngoài hằng có tính dối gạt, và ai dường như xa đích nhất lại thường khi là người gần nó nhất, như trường hợp của Cynara, là bạn và người trợ lực trung kiên và xả kỷ của bạn, cũng vậy. Thực thế, biết bao lần ai mà thế giới gọi là kẻ tội lỗi thì chỉ cách xa mức thánh nhân rất ít, một khoảng cách như sợi tóc, hoặc ít nhất có tiềm năng là thánh nhân; tội lỗi của họ vì vậy chỉ là  sự bùng lên lần chót của ngọn lửa leo lét gần tàn của cái ngã, để rồi tàn lụi hẳn không còn sống trở lại.

Pallomides ngưng một lát, nhìn hai học trò với vẻ thương mến và hồi lâu nói.

– Nay tôi phải đi thiền định một chốc và phải rời hai bạn, nhưng không lâu sau tôi sẽ trở lại và chúng ta đi nghỉ qua đêm.

Khi ông đi khuất, Antonius cầm tay Cynara và bảo.

– Em yêu, đây là cuối đường mà nó cũng là khởi đầu, vì từ trước tới nay chúng ta như trẻ con đang học đi, không thể hành động vì giới hạn của mình, luôn cả không thể cảm xúc và không thể thương yêu. Nay anh biết điều mà ai chưa hiểu biết gọi là tình thương so sánh với nỗi ngất ngây anh cảm thấy đối với em, thì khó thể là tình thương chút nào, mà chỉ là sự trộn lẫn thất thường của dục vọng và buồn khổ, sự vui mừng lúc có lúc không, lo lắng, ghen ghét, và nhiều điều không ổn định khác.

Cynara mỉm cười và nói.

– Bàn về tình thương thì anh nói đúng lắm, còn nói về cuối đường thì đó là cho anh mà chưa phải cho em; vì hãy biết rằng em chưa qua thử thách kinh khiếp dẫn tới đích sau rốt.

Antonius nhìn cô với sự thiết tha của lòng từ thương yêu trong mắt anh và nói.

– Nào, ước chi anh có thể tránh cho em việc ấy, vì nỗi thống khổ đó không sao tả được, tựa như bao nỗi thống khổ tụ vào làm một.  Em có muốn biết  làm sao nó xẩy ra không ?

Cô đáp.

– Kể em nghe !

Và anh nói.

– Em không biết, trên núi ở đó anh tưởng em đã chết rồi.

Cô bóp lấy tay anh, nhìn vào gương mặt anh với ánh mắt là một bể hùng biện, nhưng không thốt ra lời trong một lúc lâu. Rồi cô nói.

– Tuy nhiên, cho dù em có chết, anh biết rõ mà, không có sự chia cách.

Và anh đáp.

– Anh biết rõ lắm và đó là  thử thách của anh, vì đó là lần chót ảo tưởng đáng sợ về sự chia lìa tràn ngập hồn anh, làm anh cảm thấy bị bỏ rơi hoàn toàn, luôn cả không còn cảm được tình thương. Anh kể em hay là chưa bao giờ sự Cứu chuộc lại gần như thế khi nó có vẻ như hoàn toàn ở ngoài tầm tay, vì vậy hãy nhớ điều ấy khi tới lúc em có thử thách cuối cùng. Giờ hãy trả lời anh một chuyện.

Cô hỏi.

– Anh muốn gì ?

Anh nói.

– Em có nghe thầy nói là còn có chuyện phải làm cho thế giới ?

Cô trả lời.

– Có, em có nghe !

Anh nói.

– Nay giới hạn của không gian và thời gian và sự mệt mỏi đã mất hẳn rồi; việc giúp đỡ nhân loại mồ côi đáng thương là niềm vui hân hoan cho mỗi người phụng sự, và họ thực hiện việc ấy bằng khả năng thêm vào của mình, như vậy công chuyện mà Pallomides nói tới đó hẳn phải liên hệ đến cõi trần.

Cô trả lời.

– Có thể như vậy lắm, mà như thế thì sao ?

Anh trả lời.

– Em biết rằng thân xác này chỉ kéo dài một lúc ngắn so với sự Vĩnh cửu, và có ít người phụng sự, vậy tột đỉnh hoàn toàn của kiếp sống của ta nơi cõi trần chỉ tới được nếu ta tạo nên hình hài cho một linh hồn cao cả. Anh hỏi xin em hai việc được chăng ?Hãy cho anh một người vợ với thân xác và con người đẹp đẽ của em, và một cậu con trai.

Cô đáp.

– Em rất sẵn lòng.

Do đó sau một thời gian, hai người nay đã kết hợp với nhau, quay về sinh quán của mình và thời gian trôi qua sinh hạ một bé trai. Vì tình yêu thank khiết của họ và sự cao thượng của linh hồn họ, hai người thu hút vào mình một nhân vật cao cả, người ấy trở thành nhà hiền triết đại tài, làm thế giới phong phú hơn với một triết lý thiêng liêng.

Về cha mẹ của ông, tới cuối đời và tuy trông vẫn còn trẻ trung, xinh đẹp, hai người rời bỏ xác thân, nay cùng làm việc ở những cõi phúc lạc trên cao nhất, cho tới khi đúng ngày giờ sẽ tái sinh lần nữa, trợ giúp thêm cho sự giác ngộ của con người.

HẾT